Wednesday, December 28, 2016

Bò, sói, sư tử và người

Tối nay trên Discovery Chenel - một kênh truyền hình chuyên phát những chương trình khám phá khoa học tự nhiên và xã hội của thế giới - nói về đàn bò rừng mỗi con nặng nửa tấn, có những con bò mẹ có bê con. Đàn bò hàng ngàn con, nhưng lại bị chỉ 10 con chó sói đuổi chạy không ngừng nghỉ.

Đến khi 1 con bê con kiệt sức bị 10 con sói tấn công, thì chỉ 1 con bò mẹ nặng nửa tấn ở lại để chiến đấu với bầy sói bảo vệ con mình. Trong khi, cả đàn bò hàng ngàn con, to lớn khỏe mạnh vẫn bỏ chạy bỏ lại mẹ con bê chiến đấu một mình với bầy sói.

Có 2 tình huống diễn ra, một là, bò mẹ bảo vệ được con bằng tư duy tự vệ, và thoát khỏi đàn sói để nhập đàn. Và cuộc rượt đuổi tiếp tục diễn ra đến khi một bên bỏ cuộc. Tình huống thứ hai là, bò mẹ không thể bảo vệ bê con, và bê con trở thành miếng mồi cho đàn sói đói. Và đàn sói chỉ cần có thế là đủ, không còn rượt đuổi đàn bò rừng.

Chuyển sang một bối cảnh khác, đàn bò rừng bị đàn sư tử chỉ 3 con tấn công. Khác với sự việc đối đầu với sói. Lúc này, những con bò rừng khỏe nhất cùng chụm lưng với nhau quay về 3 con sư tử để bảo vệ bê con, và bò yếu. Vì khác với sói, chỉ cần no bụng. Sư tử không chỉ no bụng, mà còn muốn bắt thêm nhiều con bê và bò khác sau khi đã no. Sư tử săn mồi là một thú tính và một sự chứng tỏ sức mạnh của mình, chứ không chỉ vì bản năng đói khát.

Bò là loài động vật tự dưỡng chỉ ăn thực vật, không có nanh vuốt để tiêu diệt động vật khác. Hơn nữa, nhu cầu của nó là thực vật chứ không phải động vật. Nên nó chỉ có tư duy tự vệ và sinh tồn, không có tư duy hủy diệt các động vật khác.

Khác với loài bò, sói và sư tử là loài động vật dị dưỡng. Chúng không thể có cái bao tử 2 ngăn để vi sinh trong bao tử như bò biến cellulose thành glucose và ATP - Adenosin triphotpahte - để có thể tổng hợp protein từ cellulose và acid amine của vi sinh như bò. Nên loài động vật dị dưỡng phải trang bị nanh vuốt để ác hơn, hủy diệt các loài động vật khác cho quá trình đấu tranh sinh tồn của mình.

Nhưng bò hiểu tự vệ với sói chỉ là bỏ chạy, vì sói chỉ cần no, không cần chứng tỏ sức mạnh với muôn loài. Còn đối với sư tử, bò biết sau khi no, sư tử còn muốn tiêu diệt thêm những con bò khác nữa.

Song dù gì, thì tư duy của bò vẫn là tư duy tự vệ để sinh tồn. Cả đàn bò sẵn sàng vì sự sống còn của bản thân từng cá thể một hơn là cùng chung sức để đánh đuổi sói. Nhưng cả đàn bò sẵn sàng chung sức để tự vệ với sư tử khi bị tấn công. Đó được gọi là tư duy tâm lý hành vi theo thói quen, hay nói đúng nghĩa là quán tính tư duy. Tại sao cả đàn bò không thể thoát ra khỏi quán tính tư duy để chung sức chống lại chỉ 10 con sói, mà sức vóc và trong lượng chỉ bằng một con bò?

Các nhà Động Vật học nghiên cứu về tâm lý động vật và người, họ thấy có sự giống nhau về mặt mặc định trong não bộ về đẳng cấp các dòng họ và loài.

Họ thấy rằng, mặc định loài trâu và bò trong não trạng của chúng luôn bỏ chạy và sợ sệt loài chó sói, và chó chăn bò, nên bò trâu nuôi để giết thịt luôn chịu đựng sự chăn dắt của chó chăn bò, mặc dù, con bò thịt chỉ cần giẫm đạp thôi con chó đã nát nhừ.

Đối với con người cũng vậy, dòng giống làm chính khách luôn chăn dắt những dòng họ bình dân vì đẳng cấp thấp hơn về tư duy thỏa hiệp và tinh thần thép. Mặc dù, cả chục triệu dân bình thường cũng không thể chọi lại chỉ 1 chính khách nhỏ bé cũng từ tâm lý và đẳng cấp là vậy. Nó cũng giống dân nô lệ da đen xưa cam chịu làm nô lệ cho chủ đồn điền da trắng vậy.

Nhìn đàn bò rừng, sói và sư tử mà nghĩ đến con người không thấy có sự khác nhau. Con người tự cho mình là loài thông minh nhất. Nhưng trong sâu thẳm của quán tính tư duy của con người không khác đàn bò rừng đang được chiếu trên Discovery Chenel.

Trong con người của một xã hội cũng có loài bò người, loài sói người, và loài sư tử người. Bò người luôn làm thân trâu ngựa, để đóng thuế nuôi loài sói người, và loài sư tử người ăn trên ngồi trốc ở từng vị trí khác nhau trong hệ thống cai quản xã hội.

Nghịch lý của loài bò người là trong tư duy của chúng tự an ủi mình là loài lương thiện nhất trong đám loài người. Chúng có thể tự tìm lấy miếng ăn, tự sinh tồn bằng sức lực và trí tuệ mình. Và chúng tự mãn, tự sướng với khả năng của mình rằng, mình là loài lương thiện, tài ba nhất trong đám loài người. Nên chúng không có nhu cầu đòi hỏi bảo vệ cộng đồng, mà chỉ khư khư lo cái an toàn của bản thân mình, khi đồng loại bị loài sư tử và sói người tấn công.

Làm sao để loài bò người hiểu được, tư duy được để biết chung sức, mà không chỉ nghĩ riêng sự sinh tồn của cá nhân mình, mà chống lại sói, cũng như chống lại sư tử người là một quá trình gian nan và không phải lúc nào cũng làm được.

Quán tính tư duy, một quá trình kéo lùi nhân loại, giúp sức muôn loài đấu tranh sinh tồn và duy trì nòi sống cũng như sự sống tiếp nối theo lịch sử. Nhưng để thoát ra khỏi quán tính tư duy của bò, thành sói hay thành sư tử là điều quá khó cho những loại động vật bậc thấp được cho là người.

Bi kịch của loài động vật thông minh người là ở chỗ, nó không thoát ra khỏi tư duy bầy đàn của loài bò, sói và sư tử. Ấy thế cho nên đã là bò người, sói người hay sư tử người thì mãi mãi là tư duy của bò, sói và sư tử theo từng cấp độ khác nhau. Không thoát ra được.

Văn hóa thất bại và sự thất bại của văn hóa

Người ta vẫn nghe nhiều nghị quyết, nhiều đề án nói về kế hoạch xây dựng một nền văn hóa “đậm đà bản sắc dân tộc” với những tính chất nhân văn ngời sáng nghĩa nhân, trung hiếu, anh hùng; nhưng phải chăng từng nét, từng tính chất của nền văn hóa ấy đang bị biến tướng, bóp méo thành những nét “phản diện” mà nếu bình tĩnh nhìn lại người ta không khỏi bàng hoàng khi nhận ra những “bệnh thái” của một nền văn hóa… thiếu tâm hồn!

Văn hóa bạo lực?

Nền văn hóa ấy đang trực tiếp hay gián tiếp cổ xúy cho một lối hành xử… phi nhân tính. Cho dù nguyên nhân nào đi nữa: vì games online hay vì “mặt trái cơ chế thị trường…” thì bạo lực đang diễn ra đều khắp trên cả nước, có lẽ chỉ trừ những quốc gia có Al Qaeda xuất hiện, còn thì ít có báo  chí nước nào trên thế giới mà lại đưa nhiều tin vụ án mạng đến thế! Người ta đã thấy những nguyên nhân gây tử vong hàng ngày ở Việt Nam, ngoài tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tai nạn bất ngờ và bệnh tật thì còn có tình trạng cố ý gây thương tích và án mạng; đến nỗi có nhiều tờ báo ra đời chỉ chuyên khai thác chuyện vụ án…

Người ta đánh nhau, giết nhau quá dễ: va quẹt xe cũng giết người, đi hát karaoke xỏ nhầm dép cũng đổ máu, giành khách xe ôm cũng giết nhau, yêu không được thì giết, chồng đi nhậu bị vợ gọi về cũng giết! Điều đáng lo ngại là có không ít những vụ hành xử bạo lực được tổ chức thực hiện bởi giới trẻ, những kẻ là học sinh, sinh viên.

Người ta tự hỏi giáo dục gia đình, học đường ở đâu, ảnh hưởng thế nào trong suốt những năm tháng tuổi thơ và trưởng thành mà tình trạng bạo hành gia đình, bạo lực học đường, cố ý gây thương tích và án mạng ngoài xã hội lại xảy ra theo cấp độ tăng dần từng năm? Hỏi tức là đã nhận ra sự thiếu hiệu quả hay đúng hơn… sự thất bại của giáo dục, suy rộng hơn, sự thất bại của một nền văn hóa… lệch hướng.

Văn hóa phù phiếm, háo danh

Khi những nghệ sĩ, những nhà giáo giành giật nhau những danh xưng “Nghệ sĩ Ưu tú” hay “Nhà giáo Nhân dân” lại lôi cả chuyện quá khứ của nhau ra để chứng minh ông A hay bà B gì đó không xứng đáng với danh hiệu này nọ thì trách sao quần chúng, kiến văn hạn hẹp, không khoe nhau cái áo cái quần hàng hiệu, “con” xe mới tậu. Thật buồn khi đọc những dòng tin trên mạng: “Hàng trăm người Hà Tĩnh kéo đến xem xe “siêu sang” của đại gia… Một trong 4 chiếc Rolls-Royce Phantom phiên bản rồng đầu tiên tại Việt Nam… đã có mặt ở Hà Tĩnh… chiếc xe xuất hiện trước sảnh khách sạn BMC, TP.Hà Tĩnh đã thu hút sự hiếu kỳ của hàng trăm người. Nghe đâu chiếc xe này có giá lên đến 1,7 triệu USD” (Thanhnien online).

Điều này gợi nhớ câu chuyện thời trước, có một anh nhà giàu mua được cái máy hát dĩa khiến cả làng trầm trồ như “vật thể ngoài hành tinh”. Người ta lại nghĩ đến những doanh nhân lừng danh; như Warren Buffet, một trong những người giàu nhất thế giới, vẫn sử dụng một chiếc Cadillac DTS, chiếc xe ông mua để ủng hộ nhà sản xuất ô tô Mỹ là GM khi đó đang gặp khó khăn, chiếc xe có giá khoảng 45.000 USD; hay Ingvard Kamprad, nhà sáng lập hãng Ikea, có tổng tài sản ước tính 28 tỷ USD, đang dùng một chiếc xe cũ hiệu Volvo 240 đời 1993, hiện chỉ có giá trị khoảng 1.500 USD! Alice Walton, nữ thừa kế tập đoàn Wal-Mart, là người phụ nữ giàu thứ hai thế giới, nhưng bà chỉ đi một chiếc Ford F-150 King Ranch phiên bản 2006 giản dị, giá bán khoảng 40.000 USD. Mark Zuckerberg, ông trùm Facebook có giá trị IPO tuần qua trên 100 tỷ USD, thường sử dụng những chiếc xe rất giản dị, như Honda Fit và Acura TSX. Xe Acura có giá từ 30.000 USD, còn Honda Fit thì chỉ bằng một nửa. Thế nhưng, những doanh nhân nói trên đều rất tích cực làm từ thiện, có người cam kết đóng góp 90% tài sản như trường hợp W. Buffet.

Trong khi đó, ở Việt Nam, người ta mất thì giờ đọc những tin về đám cưới siêu sang đến hàng chục tỷ, cho dù những nhân vật chính đang nợ nần đầm đìa, ngập ngụa… Xã hội tôn vinh trọc phú, nên đừng trách con trẻ vào đời chỉ mong sao kiếm tiền, bất chấp thủ đoạn.

Thứ văn hóa phô trương ấy còn là văn hóa… “ cởi” và “mở”. Gần đây, Cục Nghệ thuật biểu diễn đề nghị Sở Văn hóa Thể thao Du lịch TP.HCM kiểm tra và có biện pháp xử lý nghiêm khắc với hiện tượng ăn mặc thiếu lành mạnh, không phù hợp với thuần phong mỹ tục dân tộc của một số ca sĩ. Trước đó, Bộ trưởng Bộ VHTT&DL đã ký chỉ thị chấn chỉnh hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang làm ảnh hưởng đến phong cách thẩm mỹ của một bộ phận giới trẻ, gây phản ứng xấu trong dư luận xã hội. Có người cho rằng trong quản lý có nhiều lỗ hổng, hay nói cho đúng, đây là lỗ hổng trong giáo dục thẩm mỹ và cũng là lỗ hổng nhân cách. Một nhà báo đã ví cách quản lý hiện nay của Bộ hay Sở là “ong đốt bê tông”, nghĩa là không hiệu quả gì!

Những người yêu nghệ thuật chân chính phải biết trân trọng giá trị của nghệ thuật và phải có văn hóa ứng xử với nghệ thuật, từ thái độ, hành vi của nghệ sĩ, diễn viên và tất cả những ai tham gia vào môi trường nghệ thuật, bao gồm cả người thưởng thức nghệ thuật và người quản lý, tổ chức. Theo một nhà bình luận thì: “Nếu ca sĩ hay nhà tổ chức biểu diễn… có nộp phạt vài triệu vì vi phạm quy định biểu diễn nghệ thuật, sẽ là quá rẻ nếu dùng nó để gây “tiếng vang” cho mình. Nhưng đó lại chính là mầm độc hủy diệt sự tồn tại lâu dài giá trị đích thực một đời người nghệ sĩ, và sự hưng thịnh của một nền nghệ thuật (Xuân Thân, VOV online).

Văn hóa bản năng

Khi nói đến bản năng, chúng ta muốn nói đến sự vắng bóng của lý trí, hay tâm linh. Sự việc một số nhân vật lãnh đạo dính vào những vụ bê bối về sắc dục, tình trạng xâm hại phụ nữ hay trẻ em của các bậc cha anh, hoặc tin tức về việc thầy giáo cưỡng bức nữ sinh loan trên các phương tiện thông tin… cho thấy đã có sự xuống cấp đến… chóng mặt của đạo đức.

Còn biết tin ai? Những bữa tiệc siêu sang với dàn tiếp viên thoát y, những quán café lùm, café chuồng là dành cho ai? Khi giới trí thức tương lai là sinh viên sẵn sàng làm “gái bao”, sống thử; khi tình trạng phá thai đạt con số kỷ lục hàng triệu ca thì những bậc cha mẹ có yên tâm khi con mình ra đường, kết bạn hay lập gia đình mai sau vì biết đâu dâu rể mình cũng đã có một thời “phóng đãng”?

Người ta không thể đổ cho cái nghèo, cái khó được, lại càng không thể đổ cho “cơ chế thị trường” vì những nước lân bang như Singapore hay Mã Lai có nền kinh tế còn “thị trường” hơn nhiều! Cũng chính vì hành xử theo “bản năng” nên đến chồng còn dàn xếp cho vợ mình quay “clip” ân ái với sếp trên để tố cáo, trong khi cả 3 người đều là bác sĩ. Khi văn hóa phát triển phần CON nhiều hơn phần  NGƯỜI thì còn biết trách ai khi niềm tin vào lương tâm, vào lý nhân quả, thiện ác chẳng phôi pha!

Phải đi lại từ đầu?

Phải dạy lại yêu thương cho tuổi trẻ, dạy lại lòng tự trọng cho thế hệ cha anh để họ phải nhìn lại chính mình và thực sự biết làm tấm gương cho thế hệ mai sau. Quan trọng hơn, phải huân tập lòng nhẫn nhục, sự nhường nhịn trong từng con người Việt Nam hôm nay vì rất nhiều người sau khi đi nước ngoài về, dù là Đông Nam Á hay Âu Mỹ đều chung nhận xét: Người Việt Nam bây giờ sao hung dữ quá! (văn hóa bạo lực), hay ồn ào quá, “nổ” quá! (văn hóa phù phiếm) hay giới trẻ bây giờ thực dụng đến lạnh lùng! (văn hóa bản năng).

Có lẽ người ta cần nhớ lại lời trong bài hát Blowin in the Wind của Bob Dylan “Bao nhiêu đường một người phải đi -Trước khi được gọi là người”.

Con đường phải đi đó bắt nguồn từ cha mẹ rồi đến thầy cô trước khi vào đời. Con đường đó phải xây lên bằng tình yêu để tuổi trẻ cảm thấy ấm áp, nhìn người chung quanh và đời bằng cặp mắt “nồng nàn” như Trịnh Công Sơn có lần đã viết:

Những con mắt tình nhân Nuôi ta biết nồng nàn Những con mắt thù hận Cho ta đời lạnh căm (Những con mắt trần gian)

Người nhạc sĩ tài hoa này từng kêu gọi “Mỗi người phải nỗ lực để xây dựng cho bằng được một ngôi chùa tĩnh lặng trong lòng mình và nuôi lớn Phật tính trong chính bản thân thành một tượng đài vững chắc. Nó sẽ giúp ta nhìn thế giới khác đi, nhìn cuộc sống khác đi…”.

Muốn nhìn thế giới khác đi thì chính lòng ta phải khác; vì khi còn sân hận, thì tâm thức oán thù vẫn còn. Chính vì thế Phật giáo cho rằng nhẫn nhục không phải là yếu đuối hay hèn nhát mà chính là sự kềm chế, là một sức mạnh. Chuyện Sarabhanga trong tuyển tập chuyện Tiền thân Đức Phật kể lại: Khi được Trời Đế Thích hỏi vì sao một người có thể chịu đựng được sự trịch thượng của kẻ dưới, Bồ-tát Sarabhanga đã trả lời, “Chịu đựng sự trịch thượng, nếu là của người trên, thì đó là vì sợ, nếu là của người ngang hàng, thì đó là vì không muốn tranh cãi, còn nếu là của kẻ dưới, thì đó chính là hạnh nhẫn nhục của bậc đại trí”. Không nổi giận, không tranh chấp với người khác không phải là vì sợ mà đó chính là hạnh của người hiểu biết. Đây chính là điều mà mọi người trong xã hội cần phải hiểu nằm lòng và thực hiện được để sống với nhau một cách hòa hợp. Bấy giờ, ta nhìn và nghe cuộc đời bằng “con mắt tình nhân” hay “lỗ tai tình nhân” nên muộn phiền, hờn giận chỉ như “gió thoảng qua” mà thôi. Chừng đó thì dù thua hay thắng, ta vẫn nhìn mọi người như những người bạn và ta hiểu “sống trong đời sống cần có một tấm lòng”… dù chỉ “để gió cuốn đi…”.

Hãy thấy rằng chúng ta cần vượt qua thất bại hôm nay! 

NGUYÊN  CẨN

Xem thêm: Không “mê sảng tự hào”, cũng “không gặm nhấm tự ti”

P/S: “Văn hoá” tự ti, tự tôn, phô trương loè loẹt, vì thiếu tự tin, vì không thực tình, nên buộc phải vỗ ngực huênh hoang những cái không có thật...?

“Văn hoá” hội chợ, múa rối, giả trá, bịp bợm, lố lăng, phung phí, rẻ tiền, trơ trẽn, mại dâm...?

“Văn hoá” chất thải, ô nhiễm, trai thị thành giả dạng làm anh trai làng, gái thuần Việt ngụy trang làm gái sắc tộc các bộ lạc đang bị xua đuổi, chiếm đất, môi trường sinh sống muôn đời bị tàn phá huỷ diệt, mà chính “bọn thực dân Pháp” cũng đã muốn giữ gìn?[**]


“Văn hoá” trọc phú, hạ cấp, buồn nôn...?

Cha thì sao, mẹ thì sao?

Tôi đã nghĩ như thế đấy, và bây giờ, tôi lại càng tin chắc như thế đấy: Cha mẹ nghĩ mình là ai mà có quyền bắt con cái phải chịu ơn họ ngay khi chúng được sinh ra trên đời?!

1. Sinh con là bản năng duy trì nòi giống của loài người, như cây cối vẫn ra hoa kết quả và nhả hạt xuống đất để mọc lên mầm cây mới. Gieo mầm sự sống, bảo thiêng liêng thì cũng rất thiêng liêng, bảo sinh học thì cũng thuần sinh học, và điều chắc chắn là không ai bắt cái hạt phải cảm ơn cái cây bao giờ.

2. Trừ thụ tinh ống nghiệm, còn thì sinh con là kết quả của have sex, và hầu hết loài người hiện đại chả mấy ai have sex chỉ đơn thuần nhằm mục đích sinh con. Bắt người khác phải cảm ơn cái việc ấy của mình, lại thêm một lần hài hước.

Đứa trẻ là hậu quả của một ông khách làng chơi đòi đi chân trần và một cô gái bán hoa thiếu hiểu biết, có cần phải cảm thấy việc nó được thành hình là thiêng liêng cao quý lắm không?

3. Cái quyền quan trọng nhất của con người, xét cho cùng là quyền được lựa chọn. Thế mà lựa chọn quan trọng nhất, lựa chọn mình có được sinh ra trên đời hay không, đứa trẻ lại không được quyền quyết định.

Người ta có cả ngàn lí do để sinh ra một đứa trẻ: vì bản năng, vì thiên hạ ai cũng có con, vì muốn vợ chồng thêm gắn kết, vì muốn có người nương tựa tuổi già... Chưa kể những mưu toan úp sọt, ràng buộc đòi quyền lợi. Rặt những lí do ích kỉ. Để rồi người ta cứ thế cho ra đời những đứa trẻ có H, những đứa trẻ thiểu năng đau đớn tật nguyền vì chất độc da cam, những đứa trẻ sinh trên vỉa hè và lớn lên đầu phố...

Nếu bạn từng lặng người trước những đứa bé hơn một lần ao ước chúng chưa từng được sinh ra trên đời, thì hẳn bạn sẽ không bênh vực đến thế cho cái quyền muốn sinh bao nhiêu thì sinh, và sinh bởi ai tuỳ thích.

Bản thân cái việc muốn có một đứa con, cũng đã là vị kỉ rồi.Lí do duy nhất chính đáng để sinh ra một đứa trẻ là tin chắc rằng mình có đủ điều kiện tối thiểu để khiến cho cái sinh vật kia hạnh phúc. Còn ngược lại, bắt chúng phải chào đời không những không có công, mà còn là tội ác.

4. Có một sự phi logic khi cha mẹ được mặc nhiên chia làm 2 hạng, trong đó, trừ hạng phạm vào tội ác xấu xa (cha cưỡng con gái ruột, mẹ bán con lấy tiền nuôi bồ, bố mẹ đánh chết con đẻ...), thì còn lại đều là thần thánh, là công lao trời biển như núi Thái Sơn như nước trong nguồn gì gì đó.

Xin lỗi, đến cầm thú sinh con ra còn biết nuôi con, cha mẹ biết nuôi con thì cũng mới chỉ tương đương. Còn như sinh con ra với ý nghĩ trời sinh voi sinh cỏ, để nó tự bươn chải với đời, thậm chí trở thành gánh nặng cho xã hội thì thật, không bằng cầm thú.

Cha mẹ chỉ vĩ đại khi họ làm được những điều hơn mức người thường có thể làm. Chứ đừng tưởng cứ sinh con ra, nuôi cho nó ăn học trưởng thành là đã có thể xếp mình vào hạng A, và có quyền sở hữu đứa con như thế.

5. Hồi tôi còn học tiểu học, tầm 93-94, mẹ tôi có giúp đỡ một người đàn bà câm đẻ con trên hè phố, mẹ của 4 hay 5 đứa trẻ xin ăn quanh công viên Thống Nhất. Cho đến một ngày mẹ con tôi tình cờ chứng kiến mẹ con họ giành ăn. Cảnh tượng ấy khủng khiếp đến nỗi nó ám ảnh tôi tới tận bây giờ, và sau lần ấy, mẹ không bao giờ dám dắt tôi ghé thăm bà ta nữa. Chắc là mẹ có tiếp tục giúp đỡ thêm một vài lần, cho đến khi được biết sự thật là bà chuyên "hợp tác" với các ông xích lô, xe ôm quanh đó, cho ra đời những đứa trẻ không nhà mà hầu hết sẽ được bán đi khi vừa cứng cáp.

Sự khác nhau giữa mẹ tôi và người đàn bà ấy là gì? Không phải mẹ thụ thai cao quý hơn, mang thai vất vả hơn. Không phải vì mẹ may mắn được ăn học và có điều kiện kinh tế tốt hơn. Mà vì trong mọi tình huống, mọi hoàn cảnh, mẹ luôn nghĩ trước nhất phải làm sao để tốt cho chúng tôi, như một bản năng. Tôi yêu quý mẹ, không vì đạo đức hay ràng buộc máu mủ nào, mà vì mẹ xứng đáng được như thế, cho cái cách mẹ đã yêu thương.

Nếu sau này có làm mẹ trẻ con, tôi cũng sẽ không đòi hỏi ở chúng nghĩa vụ hiếu thuận hay phụng dưỡng. Tôi sẽ yêu thương chúng đủ để chúng yêu thương mình, như một bản năng.

6. Còn bây giờ, đứng trước đứa trẻ vô tội vừa bị "thằng bố" khốn kiếp dùng điếu cày đánh chết, tôi lại nhớ đến bé Nhân Ái của tôi. Bé xíu xiu xinh quá với đôi má hồng, mà tôi vẫn ứa nước mắt mỗi ngày rằm ghé thăm em ở chùa Trấn Quốc. Tôi không đủ can đảm đưa hình ảnh của em lên đây, nếu muốn, bạn cứ Google, và rồi bạn cũng sẽ như tôi, bị ám ảnh bởi câu hỏi vì sao một sinh vật xinh đẹp đến thế lại bị bỏ rơi, để phải chết trong tức tưởi.

Nếu em biết nói, em sẽ nói gì? Nói rằng người lớn xứng đáng được thứ tha, chỉ vì họ là cha, là mẹ?

Nguồn: guu.vn

Bao giờ chân người Việt hết giao chỉ?

Khổng Khâu một đời lang thang phiêu bạt sáu nước chẳng vua chúa nào tin dùng, viết sách dạy học, 3000 môn đệ ngồi nghe giảng ở đất Dĩnh, đời sau xưng tụng là Vạn Thế Sư Biểu.

Lý Bạch thảo xong 24 khúc “Thanh Bình Điệu” quẳng bút xách hồ lô rượu về lại chốn không nhà, ngày nay còn được ngợi ca là Thi Thánh. Tất-Đạt-Đa bỏ cung điện ngai vàng vợ đẹp đi vào thâm sơn cùng cốc, nhân gian tôn thờ là Phật. Giê-Su 12 tuổi không nhận cha mẹ từ cửa thánh đường Do Thái ra đi biệt tích cho đến năm 30 tuổi, thế gian kính ngưỡng là Đấng Cứu Thế …

Không có tên người Việt Nam đủ vĩ đại để có thể nêu lên thí dụ về những triết gia, thi hào, giáo chủ tâm cao trí cả lừng lững ý chí và lý tưởng bao trùm cả nhân loại.

Suốt gần 5000 năm lịch sử quốc gia này không nô lệ Tàu Tây thì nội chiến dai dẳng, độc lập không lâu, hòa bình quá hiếm. Không lệ thuộc thì xâm lăng: người Việt chiếm Chiêm Thành, diệt Lâm Ấp, phá Phù Nam, lấn Khmer, …

Một tộc người nhỏ bé, da vàng, trán giồ, mũi tẹt, răng hô, chân giao chỉ, đến thiên niên kỷ thứ ba của dương lịch vẫn còn tranh cãi về nguồn gốc, lác đác những huyền thoại truyền thuyết mù mờ mâu thuẫn, vẫn chưa ra khỏi văn minh lúa nước, khư khư cái nếp văn hóa làng xã lỗi thời.

Định mệnh phân rẽ, chia ly của dân tộc này đã bắt đầu với 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha xuống biển; chẳng hiểu tại sao lại phải ngăn cách nhau bằng đất đai đồng bằng.

Hay là đất bình nguyên dành cho người, con cái của thần tiên phải sống ở trên trời mây và dưới lòng biển, nên cuối cùng phải nồi da xáo thịt huynh đệ tương tàn kiếm đất cắm dùi? Nên con dân Việt hôm nay cũng chưa qua cái định mệnh phân chia, ly cách?

Thục An Dương Vương gả con gái làm dâu kẻ thù phương Bắc. Con gái nghe lời chồng mà hại cha mình và dân tộc mình, ngồi sau lưng cha chạy giặc còn bứt lông ngỗng trên áo thả làm dấu cho chồng đuổi theo. Cha đành phải giết con rồi tự sát. Chung thủy và phản bội của tổ tiên người Việt đối kháng kịch liệt và lẫn lộn tàn nhẫn đến thế thì thôi!

Vóc người Việt Nam nhỏ bé như mảnh đất tổ quốc gầy còm tượng trưng cho tất cả mọi sự nhỏ bé gầy còm khác. Chùa Một Cột ở Hà Nội là hình ảnh biểu trưng đầy đủ nhất.

Một đất nước không có những công trình vĩ đại. Một dân tộc không có những giá trị khổng lồ.

Còn nói riêng về văn học thì tất cả đều nhỏ bé hoặc tầm tầm. Đành đau xót, nhưng chẳng lẽ người Việt không một lần thành tâm mỏ cửa so bì với thế giới nhân loại mãi sao?

Cứ mãi thu góp đủ loại tinh hoa thế giới mà không đóng góp được gì với người ta sao? Có một cái sức mạnh của truyền thống tạo sức ì hay lực cản sáng tạo hay không?

“Người Việt Nam gì cũng cười”, ông Nguyễn Văn Vĩnh cả trăm năm trước đã nhăn nhó đúc kết một nét đặc trưng dân tộc tính như thế. Nụ cười này có thể dễ thương hay thân thiện, nhưng nếu gì cũng cười thì thật đáng sợ.

Giận ghét, khinh chê, thù hận gì cũng cười cả, thì cái sự cười này thật bất trắc, không chừng trong vẻ cười ngô nghê có hàm chứa biết bao gian hiểm, nét cười thân ái che dấu răng nanh hút máu như Frankenstein. Còn không thì cũng là cái cười xí xóa, lấp liếm, cầu cạnh, bí hiểm, vô nghĩa hoặc vô duyên…

Cô Tấm trong truyện cổ tích phổ biến nhất nước ta mấy ngàn năm rồi, ngày nay còn được đánh bóng tô son nhiều lắm trong sách giáo khoa, truyện đọc, truyện kể, sân khấu, phim ảnh, thậm chí âm nhạc nữa.

Cô Tấm xinh đẹp, nết na, thuần hậu, chân chất này thật ra gian hiểm thua gì mụ mẹ ghẻ và cô nàng Cám ác độc đâu! Thâm hận độc địa và mưu mẹo trả thù tinh xảo cực ác như thế mà là quốc hồn quốc túy ở người con gái Việt Nam vẫn được ngợi ca là dịu dàng thùy mị hay sao?

Nàng Lọ Lem trong cổ tích của người da trắng chắc hẳn kinh hãi và rầu rĩ lắm khi biết được ở cái xứ da vàng nọ có cô Tấm giống mình và khác mình đến thế! Hình ảnh đầu lâu cô nàng Cám dưới đáy hũ mắm cô Tấm dâng tặng mẹ ghẻ thật khủng khiếp, có lẽ chỉ có thể gặp trong văn học dân gian nước ta.

Trong sử Tàu có Việt Vương Câu Tiễn. Hầu hết những nhà viết sử nước ta khẳng định tộc Việt của giai nhân Tây Thi này không có dây mơ rễ má gì với người Việt đất Phong Châu cả.

Nhưng sao cái đức tính chịu hèn nuốt nhục kiểu Câu Tiễn không xa lạ gì mấy với dân ta, có điều không phải lúc nào cũng là nuôi chí phục quốc, thậm chí tệ hơn, chỉ vì hám lợi cầu vinh. Chí Phèo của Nam Cao phải chăng là biến cách của Câu Tiễn trong bối cảnh văn minh làng xã?

Tất nhiên không phải tất cả dân ta đều là Chí Phèo. Dân tộc nào chẳng có những anh hùng hiển hách dựng nước giữ nước cho đến hôm nay. Đất nước nào chẳng có văn hào thi bá lừng lẫy đến muôn đời.

Nhưng thử ngẫm nghĩ mà coi, phong thổ Việt Nam rặt sản sinh những hiển hách lừng lẫy tầm tầm thôi. Từ động vật, trái cây đến núi sông thành quách. Rồi đến hình tượng con rồng uy nghiêm cao cả cũng gầy gò nhỏ bé. Để đến nỗi những tài năng xuất chúng cũng chỉ là xuất chúng với dân mình ở quê hương mình mà thôi.

Có phải vì nguồn gốc mù mờ (Tây Tạng, Tam Miêu, Bách Việt, Mông Cổ, Đại Lý, Mã Lai Á, hay Indonésien?), cộng với cả nghìn năm sống trong gông cùm nô lệ hoặc chống trả gian khổ các giống dân phương Bắc (Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh), mà dân Việt truyền đời thói quen xem mình là “tiểu nhược quốc”, cái gì cũng cố thành ra nhỏ bé ốm yếu, tránh làm gai mắt kẻ thù, để mà tồn tại trong đắng cay căm hận?

Vì thế mà dân Việt ta giỏi âm mưu, khéo luồn lách, tài độc hiểm dưới vẻ ngòai khiêm tốn, chịu đựng và yếu ớt chăng? Ta đã chẳng ví mình như lòai châu chấu đó sao? “Nực cười châu chấu đá xe, Tưởng rằng chấu ngã ai dè xe nghiêng!” Châu chấu mà đá nghiêng cỗ xe thì tất nhiên là bằng kế sách rồi, nhưng liệu có phải tất cả mọi kế sách đều tốt không? Kế sách gì cũng tốt miễn là dành được độc lập cho dân tộc tổ quốc? Có phải đã gọi là kế thì ngại gì quỷ kế, gian kế, hay độc kế? Nhưng lẽ nào để người xưa đông tây đều phân biệt rạch ròi vương đạo với bá đạo chứ?

Nguyễn Trãi được Tổ Chức Liên Hiệp Quốc tôn vinh là một danh nhân của thế giới. Chúng ta không nên lấy thế làm tự hào lắm; chẳng qua cũng chỉ là danh vị cho có mà thôi. "Bình Ngô Đại Cáo" (Hán văn) cụ Bùi Kỷ dịch sang quốc ngữ thật tuyệt vời, nhưng chuyển dịch sang tiếng Anh, Pháp thì mất hết cả khí vị hịch truyền, điệu vần biền ngẫu (văn tứ lục), từ ngữ văn phong lúc cuồn cuộn hào hùng, lúc êm đềm nhân nghĩa, chỉ còn lại phần tư tưởng có giá trị tương đối mà thôi.

Thơ văn khác của ông cũng không hẳn xuất sắc ngang tầm nhân loại. Nguyễn Trãi được tôn vinh như là một nhà chính trị và một nhà văn hóa có công lao hiển hách xây dựng và phát triển cả triều đại nhà Lê kéo dài 100 năm (1427-1527) độc lập và cường thịnh trong sử Việt. Xem vậy, Nguyễn Trãi cũng chỉ là nhân tài Việt Nam dưới cái mũ kim cô Nho học mà thôi.

Nhà sử học Trần Trọng Kim cảm thán thật sâu sắc cách nay gần 100 năm, ngày nay đọc lại chúng ta vẫn phải suy nghĩ nao lòng:

Thời đại Bắc thuộc dai dẳng đến hơn một nghìn năm, mà trong thời đại ấy dân tình thế tục ở nước mình thế nào, thì bây giờ ta không rõ lắm, nhưng có một điều ta nên biết là từ đó trở đi, người mình nhiễm cái văn minh của Tàu một cách rất sâu xa, dẫu về sau có giải thoát được cái vòng phụ thuộc nước Tàu nữa, người mình vẫn phải chịu cái ảnh hưởng của Tàu. Cái ảnh hưởng ấy lâu ngày đã thành ra cái quốc túy của mình, dẫu ngày nay có muốn trừ bỏ đi, cũng chưa dễ một mai mà tẩy gội cho sạch được. Những nhà chính trị toan sự đổi cũ thay mới cũng nên lưu tâm về việc ấy, thì sự biến cải mới có công hiệu vậy.” (Việt Nam Sử Lược, Tựa, tr. 9).

Thế đến thiên niên kỷ thứ ba này cái quốc túy của ngừơi Việt Nam còn phải chịu cái văn minh Tàu cổ kính ấy nữa không?

Nói cho cùng, người Việt nhiễm đủ thứ văn minh, ngòai Tàu còn có Pháp, Mỹ – hai nền văn minh lớn từ phương Tây, trái ngược hẳn với cái văn minh phong kiến Đông phương già cỗi phong tỏa đã lâu.

Và ngày nay, do hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, con cháu Hùng Vương rải rác khắp năm châu bốn biển, đi đi về về như mắc cửi, hình ảnh Việt Kiều trọ trẹ tiếng Việt, dáng dấp dềnh dàng, da trăng trắng mắt xanh xanh, tóc vàng tóc đỏ chẳng còn lạ nữa.

Rồi văn hóa toàn cầu tác động ồ ạt lên lối sống của người Việt mãnh liệt, đồng lọat và sâu sắc như mưa rơi trên đồng khô hạn từ sau Đổi Mới 1986.

Như một anh nhà nghèo khao khát tích lũy ôm đồm đủ thứ thượng vàng hạ cám số mệnh ban cho, người Việt đang phân hóa nghiêm trọng trong một đất nước mới tìm đường phát triển về tất cả mọi phương diện, bao gồm cả phát triển con người.

Quan niệm dân gian “Ta về ta tắm ao ta” phải chăng đã trở thành tư tưởng hủ lậu của dân Việt, là lực cản mọi khai phóng tiến bộ của tiền nhân (như Nguyễn Trường Tộ) và trí tuệ của không ít trí thức đương đại?

Văn minh lúa nước và văn hóa làng xã với tất cả những đặc tính cố hữu như là bảo thủ, tôn ti, an phận, gia trưởng, lễ nghi, thiển cận, vun vén…là cái món quốc túy thâm căn cố đế cản trở tiến hóa dân Việt ta trong thời đại của mobile phone, internet hôm nay.

Làm gì còn mãi cái ao bé tí cho anh tắm nữa mà hả hê “dù đục hay trong”, khi mà chính anh cũng quen tắm hồ bơi hiện đại nước trong xanh thơm phức?

Kho tàng văn học nước ta thật rạng rỡ với tác phẩm Truyện Kiều của thiên tài Nguyễn Du. Nhưng ta cũng phải bình tĩnh sáng suốt đánh giá Truyện Kiều một cách khách quan giá trị của nó so với những tác phẩm văn học bất hủ của thế giới.

Giá trị của Truyện Kiều là ở thơ lục bát. Thể loại thơ đặc biệt này của người Việt, của ngôn ngữ Việt, đạt tới đỉnh cao của thi tài, có thể nói trước và sau Nguyễn Du, chưa có tác phẩm lục bát nào tương xứng.

Nguyễn Du lừng lững phá bỏ một truyền thống thi ca từ chương ước lệ trong hình ảnh và cảm xúc, bung phá cái khuôn vàng thước ngọc của thơ Đường già cỗi, khơi mở khuynh hướng lãng mạn, báo hiệu dòng thi ca trữ tình Việt Nam phát triển rạng rỡ trong thế kỷ 19, đặc biệt với Cao Bá Quát chói lọi.

Ngôn ngữ bình dân xen kẽ và hòa trộn tài tình với ngôn ngữ bác học trong một tổng thể dung dị mượt mà, trên cái nền nhịp 6-8 êm ái như điệu võng, dễ thấm vào lòng người Việt từ cuối làng đến góc phố nỗi thương cảm nàng Kiều tài sắc mà bất hạnh, vừa đáng thương vừa đáng giận, vừa đáng trách lại vừa đáng yêu.

Nhưng mà cốt truyện không phải của Nguyễn Du, cô Thúy Kiều khiến cho người tài tử kẻ phàm phu đất Việt tấm tắc xót thương lại là gái Tàu ở một triều đại Minh Gia Tĩnh xa lơ xa lắc của một ông nhà văn Thanh Tâm Tài Nhân nào đó.

Dấu vết ảnh hưởng văn hóa Bắc phương còn áp đặt, hay Nguyễn Du của chúng ta kiêng dè vua quan nhà Nguyễn truy xét nỗi lòng hoài Lê, nên phải mượn chuyện bên Tàu bất đắc dĩ?

Bên cạnh nội dung cũ ấy, sáng tạo Truyện Kiều của Nguyễn Du cho dù có thêm bớt làm mới, đề cao Phật giáo bên cạnh truyền thống Nho Lão, cũng không sáng lên ánh độc đáo mới lạ nào về tư tưởng văn hóa dân tộc đầu thế kỷ 19.

Truyện Kiều là thơ lục bát thiên tài chuyên chở một câu chuyện cảm động trong kho tàng văn học Việt Nam, dù chuyển dịch sang tiếng nước ngòai tuyệt vời như thế nào thì cũng chỉ có giá trị tham khảo mà thôi. Hồn lục bát còn đâu?

Cảnh ao mình có tuyệt vời thì cũng chỉ trong làng mình thôi, người ta có tấm tắc ngắm nghía thì cũng chẳng ai bê cái ao của mình về xứ họ để học hỏi tắm táp đâu!

Cái “ao thu lạnh lẽo nước trong veo” của cụ Nguyễn Khuyến có “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” ; ngoài ra còn có một con ếch lúc nào cũng tưởng mình có thể to bằng con bò, và ta có thể tưởng tượng thêm trên bờ ao có một cỗ xe trâu đang lọc cà lọc cọc giữa đường làng.

Nước Việt Nam chúng ta ngày nay còn luyến tiếc cái văn minh ao chuôm này sao? Người ta còn muốn tiến hóa bằng bánh xe trâu đủng đỉnh giữa làng sao? Thậm chí “trời xanh ngắt” trên vũng ao và “ngõ trúc quanh co” ấy của tao nhân mặc khách Nguyễn Khuyến là cả thế giới trong văn minh toàn cầu này chăng?

Tại sao những ông lý trưởng thời hiện đại thậm chí vẫn muốn đúc bê tông cổng làng và khóa bằng ổ khóa điện tử, để yên tâm ngồi xoa xoa bụng ếch trên ngai vàng gỗ mục dưới đáy giếng? Cả nước Việt ta là một nhà bảo tàng khổng lồ ư? Đi suốt nước toàn gặp những cổng chào truyền thống thôi ư?

Sau gần 5000 năm văn hiến, nước ta thật chẳng thiếu anh hùng tài tử, nhưng tại sao không có những công trình văn hóa lừng lẫy sánh ngang tầm nhân loại?

Có phải vì chiến tranh trong ngoài liên miên và những hệ quả khốc liệt của nó? Có phải người Việt vẫn tự đắc tôn thờ hình ảnh con châu chấu anh hùng và sẵn sàng mai phục để được lật nghiêng những cỗ xe đồ sộ khác? Và có phải trong tâm lý chúng ta vẫn khoái trá làm ớt hiểm, ớt hạt tiêu, thích sâu cay, ưa tháu cáy?

Để đến nỗi người một nước quen nhìn nhau nhỏ bé khiêm tốn, nghi kỵ và sợ sệt những tài năng tư tưởng muốn vươn mình thành người khổng lồ, phá vỡ cái cổng làng cổ kính rệu rạo mà bước ra thế giới bao la?

Để đến nỗi thậm chí người Việt tha phương cầu thực, lưu lạc giang hồ khắp nơi trên thế giới mà thua xa các bang hội kiều dân khác trong tương trợ đùm bọc lẫn nhau, chẳng phải vì cái đầu óc làng anh làng tôi, con vua con sãi truyền đời đó sao? Đến bao giờ, để mong nhảy mạnh tiến xa, chân người Việt mới hết giao chỉ?

Nói riêng về văn học, bài thơ "Vịnh Con Cóc" gần như ai cũng biết, có thể nói lên hết cái thiển cận, dốt nát và ngông cuồng của sáng tạo. Sáng tạo như thế được tiếng tốt là dễ hiểu, là gần gũi, là hiện thực, là nhân dân, là trong sáng, v.v…

Nhưng quan trọng hơn cả là nó vô hại, thậm chí nó đem lại cho người thưởng thức một trò cười cợt trong lúc trà dư tửu hậu. Và trong kho tàng văn chương ngâm vịnh thù tạc của dân Việt, bài "Vịnh Con Cóc" này nhất định sẽ sống mãi.

Chiến tranh và nội thù đã mấy ngàn năm ngăn chặn vùi dập biết bao trí tuệ và tài hoa con dân Việt, làm sao kể hết? Truyền đời không ngoại xâm thì giặc giã, không giặc giã thì loạn sứ quân, không loạn sứ loạn thần thì loạn đảng.

Người Việt đã truyền kiếp nghi ngờ chia rẽ nhau, chỉ có thể đoàn kết trước nguy hiểm chung có tính sống chết thôi, chứ yên bình rồi thì đàn áp, giành giật, đố kỵ chiếu trên chiếu dưới ngay. Ngày nay, tổ quốc chưa qua đói nghèo, dân trí còn trong trì trệ, không phải là điều đáng nói nữa.

Vậy, nếu nước Việt ta, người Việt ta vẫn chưa kỳ vọng những công trình văn hóa đồ sộ, những tác phẩm văn học vĩ đại sánh ngang tầm thế giới hiện đang trở thành một cái làng khổng lồ hướng ra văn minh vũ trụ, thì có đáng nói hay không, hỡi các ngài thần hoàng, các ông hương lý, các cụ tiên chỉ và các bác trương tuần?…

Và nếu sáng tạo vẫn phải canh chừng tiếng mõ cầm canh cầm chịch của các ông mõ thời đại thì sao nhỉ? Đức Thánh Gióng vươn vai thành người khổng lồ phá giặc Ân cứu nước xong bay thẳng lên trời.

Mấy ngàn năm rồi con dân Việt không thấy ngài đâu nữa! Liệu trong hòa bình phát triển hôm nay của nước Việt, Thánh Gióng có thể hóa thân vào một nhà triết học, một nhà tư tưởng, một nhà sáng tạo ngang tầm thế giới nhân loại hay không?

Nguyễn Phan Thịnh

Thủy Hử là bộ tiểu thuyết 'bệnh hoạn'?

Cuốn tiểu thuyết được dựng thành không biết bao nhiêu phim, truyện tranh, trò chơi điện tử… giờ đây đang trở thành đề tài nóng hổi được tranh luận tích cực trên các diễn đàn văn học nghệ thuật và cuộc sống.

Thuỷ Hử tô đẹp hành vi lưu manh?

Bàn về tác phẩm này, GS Bill Jenner nhận xét: “Tôi thấy đây là một vấn đề rất thú vị, vì nó liên quan tới nền văn hóa và trạng thái tâm lý của xã hội TQ từ triều Minh cho đến ngày nay. Một mặt, sự chém giết lẫn nhau trong Thủy Hử rất chi là nhộn nhạo; mặt khác, người ta không thể không hỏi rốt cuộc vì mục đích gì mà những người ấy vung tay chém giết như vậy?

Cái gọi là các anh hùng hảo hán trong sách ra tay choảng nhau thường gây ra tổn thương cho bản thân và người nhà, chỉ vì để chứng tỏ võ công của mình mà họ sử dụng bạo lực, làm hại kẻ khác. Xét về ý nghĩa ấy thì Thủy Hử là một bộ tiểu thuyết bệnh hoạn. Thủy Hử từng được nhà văn Mỹ đoạt giải Nobel Pearl S. Buck dịch ra tiếng Anh là All men are brothers (Tất cả là anh em). Trong đó việc tuyên truyền ca ngợi quan niệm bạo lực và nghĩa khí anh em kiểu lưu manh thì không có chút ý nghĩa xây dựng nào cả”.

Lý giải về việc bộ tiểu thuyết này từ bao đời nay được người dân Trung Quốc và thế giới đón nhận nhiệt thành, GS Bill Jenner cho biết: “Tôi cảm thấy các nhân vật trong Thủy Hử không phải là sự miêu tả cuộc sống chân thực, cuộc sống hiện thực không như thế giới hảo hán trong Thủy Hử. Nghĩa khí giang hồ trong Thủy Hử là sự tô đẹp hành vi lưu manh – loại giá trị quan này rất có tính phá hoại.

Sở dĩ cuốn tiểu thuyết này cùng với bộ phim truyền hình nhiều tập được cải biên dựa vào tiểu thuyết đó được phổ biến rộng rãi là do, thế giới trong sách tồn tại một sự tương phản với cuộc sống hiện thực. Các hảo hán trong sách ra tay choảng nhau không xét tới hậu quả. Trong đời sống hiện thực có nhiều người ưa thích cuốn sách này, đó là do họ phải chịu sự trói buộc của các thế lực quyền thế trong xã hội, chỉ có từ các anh hùng hảo hán phóng đãng bạt mạng trong sách họ mới tìm kiếm được sự giải thoát và trút bỏ nỗi phẫn nộ trong lòng. Đây là hiện tượng làm mọi người rất lo ngại”.

Dẫn dắt thanh thiếu niên vào vấn nạn bạo lực?

Khẳng định lại ý kiến Thủy Hử là một bộ tiểu thuyết bệnh hoạn, GS Bill Jenner kịch liệt phê phán tính bạo lực trong tác phẩm này: “Sở dĩ nói Thủy Hử là một bộ tiểu thuyết bệnh hoạn, đó là do nó ca tụng bạo lực như trong một vở hài kịch, mà không vạch ra hậu quả nghiêm trọng của điều đó. Con người bị giết một cách vô cớ mà không có sự thương xót của ai cả.

Nhân vật Lý Quỳ là một dẫn chứng điển hình. Tay này hữu dũng vô mưu, trung thành hết mực với bạn. Anh ta còn là một người con rất hiếu thảo, chẳng sợ gian nan đi đón mẹ về, dù bà mẹ đã bị hổ ăn thịt rồi, anh ta vẫn gắng hết sức mình. Nhưng mặt khác, nếu Lý Quỳ đã tức giận thì anh ta sẽ mất khả năng tự kiềm chế, không những chỉ giết kẻ thù mà còn giết tất cả mọi người không phân biệt ai, kể cả những người bàng quan vô tội cũng bị anh ta dùng rìu chém chết tuốt.

Điều đó nói lên, vì để trút giận mà Lý Quỳ không tiếc tay sử dụng bạo lực cực đoan không chút ý nghĩa gì hết. Điều này rất dễ gây ra sự dẫn dắt sai lầm cho thanh thiếu niên. Dĩ nhiên đây không phải là thứ riêng TQ mới có, các nước khác cũng có vấn đề bạo lực thanh thiếu niên. Chẳng hạn, xã hội Mỹ hiện nay cũng có sự thể hiện giá trị quan của Thủy Hử. Thiếu niên mang súng vô cớ bắn giết người khác chỉ vì để trổ tài, giống hệt như biểu hiện của các hảo hán trong Thủy Hử.

Mặt khác, chính quyền từng coi Thủy Hử là cuốn tiểu thuyết ca ngợi cuộc khởi nghĩa của nông dân, qua đó tuyên truyền cho cuốn tiểu thuyết này. Thực ra, trừ Lý Quỳ ra, 108 tướng trong Thủy Hử đều không phải là nông dân. Phần lớn họ là người thuộc tầng lớp quan lại, có cả những chủ đất, ngay anh em họ Nguyễn cũng là các nhà tư bản thuê mướn sức lao động. Nếu nói Thủy Hử thể hiện mâu thuẫn giai cấp gì đó thì tôi cho rằng, nó chủ yếu thể hiện mâu thuẫn nội bộ tầng lớp dưới của giai cấp thống trị.

Các anh hùng hảo hán trong sách chỉ lo báo thù riêng tư, họ quan tâm nhiều hơn đến sự thừa nhận họ là hảo hán và họ coi trọng nghĩa khí của hảo hán. Song loại nghĩa khí ấy không chú trọng cái nghĩa của chuẩn tắc đạo đức, không phải là chính nghĩa. Ngay Thủy Bạc Lương Sơn bản thân cũng là sự thể hiện một xã hội có giai cấp. Khi chia của ăn cướp được, Thủy Bạc Lương Sơn chia chiến lợi phẩm ra làm hai phần: một phần để cho các anh hùng hảo hán hưởng thụ, một phần khác chia đều cho các tiểu lâu la đông người hơn, song chưa bao giờ họ chia lương thực cho những người nghèo đói.

Tuy họ cũng đánh úp bọn quan lại ác bá, song lý do đánh thường thường là vì các thành viên trong số hảo hán ấy bị bọn quan lại ác bá đối xử không công bằng – nghĩa là có nhiều yếu tố cá nhân hơn. Chính vì thế mà người Trung Quốc mới có câu “Già chẳng đọc Tam Quốc, trẻ không xem Thủy Hử”.

Tìm thủ phạm “ám sát” văn hiến

Những tâm hồn thấp kém thì không thể thấu hiểu các bậc vĩ nhân. Cũng như những kẻ nô lệ nhe răng cười nhạo khi nghe hai tiếng Tự do.
(J.J Rouseau - 1762)
Nhân đại lễ ngàn năm Thăng Long, Hà Nội (HN) được ngắm nghía đặc biệt kỹ.

Chăm sóc nhiều. Khen chê cũng lắm.

Nhiều người không khỏi hoang mang tự hỏi: Văn hiến Thăng Long, còn hay mất?

Nếu mất, ai đã cầm nó trên tay và đánh mất? Bọn Người nhập cư đã đánh mất lối thanh lịch Tràng An? Hay kẻ nào? Cần phải tìm địa chỉ để “bắt đền” chứ?!

Quan niệm và ứng xử thế nào về khái niệm Người HN trong kỷ nguyên của Người nhập cư?

Liệu còn làm gì được không để cứu vãn nền văn hiến?

Ta hãy ngắm xem văn hiến còn hay mất.

Thân xác: đế chế kiến trúc “quan tài bê tông và hộp diêm vụn”

Nếu đến HN từ các ngõ vào thành phố, đặc biệt là từ phía sân bay Nội Bài đến cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Thanh Trì, cầu Pháp Vân..., với lợi thế ngắm HN từ trên cao, nhiều người sẽ không khỏi băn khoăn: Lẽ nào, đây là nơi mà chúng ta vẫn tự hào là Thăng Long ngàn năm văn hiến?

HN hôm nay trình diện dưới mắt kẻ qua người lại với vô số nhà cửa như một mớ “hộp diêm” hoặc các “quan tài” bằng bê tông lắp ghép bằng các mảnh vụn đủ mọi kích cỡ rồi được ném vô lối xuống mặt đất thành phố qua bàn tay của đứa trẻ chưa biết suy tính đến hậu hoạ ngàn năm.

Những hộp diêm vô hồn ấy ngự ngạo nghễ trên đất HN. Chân của lũ hộp diêm cắc cớ ấy cắm sâu xuống đất, trơ gan cùng tuế nguyệt. Rồi đây, theo các dự án đã được duyệt, sẽ có tới khoảng mấy trăm cao ốc lừng lững dựng ngược dậy, như cọc bùa yểm linh khí, như chông lởm chởm, cắm vào mảnh đất nội đô vốn đã quá tải, vốn đã méo mó hình thù và vô cùng chật chội.

Rồi đây, HN sẽ còn thêm rất nhiều “hộp diêm”, “quan tài” bê tông và toà cao ốc, những chung cư không linh hồn được xây nên. Có đặc điểm nguy hại mà những nhà quy hoạch không để ý. Mỗi lần họ không để ý là một lần bầu trời hoặc những gương hồ HN bị xẻo đi một miếng, mà toàn là những miếng lớn, không có cơ hội vá víu được. Đó là cho phép những toà cao ốc trấn yểm các ngã ba ngã tư thành phố. Cứ theo đà này, sẽ đến ngày một ngày không xa, người HN ngẩng đầu lên mà ngày không thấy trời, đêm không thấy trăng. Đến mặt trăng và mặt trời mà ngày càng xa lạ với con người, thì đương nhiên tầm nhìn của con người ngày càng chật hẹp và bức bối.

Hậu quả là kiến trúc nội đô HN hiện tại không có cách gì sửa chữa được. Nó khủng bố thẩm mỹ của những kẻ hậu sinh, khiến cho thế hệ này đến thế hệ khác ngày càng xa lạ với văn hiến và nền văn minh. Tự động hình thành một tầm nhìn chật hẹp, manh mún, tạp nham nửa quê nửa tỉnh. Một số nhà chuyên môn còn gọi đó là hiện tượng phỉ nhổ kiến trúc, phỉ nhổ những con đường cây xanh, không khí mơ màng bốn mùa, phỉ nhổ những gương hồ quý giá...

Hầu hết mỗi con đường mới tôn tạo đều như những con đê chắn đường thoát nước. Mỗi ngôi nhà mới xây tương tự một cái chốt khổng lồ làm thương tổn nền đất và mạch nước ngầm, đường dẫn nước thải .

Nếu như năm 2008, mọi người đều quá hoảng sợ khi thấy chỉ sau ba ngày mưa mà HN đã thành sông biển và nhiều người chết đuối ngay trên mặt phố nội đô. Để phòng ngừa, Ngân sách đã phải chi một khoản tiền lớn đầu tư chống úng ngập. Hiệu quả sau khi bơm thêm rất nhiều tiền, hai năm sau, kỷ lục chuyển phố thành sông biển sau mưa ở HN nhanh hơn gấp nhiều lần. Sau trận mưa to kéo dài khoảng hai giờ đồng hồ sáng ngày 13/7/2010, lượng nước mưa ấy không thể tự tiêu. Sau năm giờ đồng hồ các trạm bơm hút cật lực, giao thông HN mới khả dĩ nối lại.

Bên cạnh các đền chùa miếu mạo mà hồn đã lìa khỏi xác, là những khu dân cư lộm nhộm đủ kiểu nhà, đủ kiểu người, đủ kiểu quần áo phơi phóng giăng mắc cơi nới điện mạng nhện lâu nay được điểm tô thêm một cái nốt mụn cóc: đó là tấm biển thô thiển đề “Khu dân cư văn hoá”. Hoàn thiện thêm bức tranh ấy, tiếng loa phóng thanh theo lối thời chiến ngày hai ba lần bất thần nổ ra trên đầu toàn thể cư dân, theo cách tuyên truyền áp đặt, buộc tất cả nam phụ lão ấu và khách nước ngoài đều phải nghe những nội dung tuyên truyền nghèo nàn, chủ yếu là mục chính quyền cơ sở tự khen mình, những bài hát chiến tranh đã cũ mèm, những nội dung thông tin xa rời sự thật, góp phần làm hỏng thẩm mỹ và tâm hồn nhiều thế hệ.

Có thể gọi kiến trúc HN mấy chục năm qua cho đến hiện tại là đế chế kiến trúc “quan tài bê tông và hộp diêm vụn”. Loại ô nhiễm môi trường ở tầm vĩ mô.

Dường như người Việt Nam, đặc biệt là HN, có một năng lực đặc biệt trong việc làm xấu đi những ân sủng do thiên nhiên ban tặng. Quy hoạch đô thị từ mấy chục năm nay vẫn là manh mún và chắp vá, luôn chỉnh sửa theo ý chí của nhiều vị lãnh đạo có khi chỉ mới tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở hoặc không có kiến thức gì về quy hoạch. Theo một số kiến trúc sư cho biết, năm 1972-1973, một đại diện của Hội Mỹ thuật đã đề nghị “nên vẽ một HN hình nắm đấm hướng về phía Nam để thể hiện ý chí “đánh cho Mỹ cút...”.

Còn vùng HN mới xây và đang xây có duyên không? Có “văn hiến” không?

Có một HN mới được tính từ khu Mỹ Đình và mở rộng ra các vùng lân cận ngoại thành HN, một chuỗi những khu đô thị vệ tinh sắp hình thành nay mai.

Nhưng bằng vào tất cả những gì đã xuất hiện, lại đã thấy cái thẩm mỹ trọc phú, manh mún vụn vặt, vô hồn, bắt chước kiến trúc la liệt chung cư của một số TP biên giới của Trung Quốc mà bây giờ người ta đã nhận ra sai lầm và đang cố khắc phục mà không nổi. Bắt chước lối kiến trúc ấy nhưng lại kém xa về thẩm mỹ và về nhịp không gian thư giãn so với Trung Quốc. Những ngôi nhà chọc trời ganh đua mọc trên một diện tích chật hẹp là thứ kiến trúc đã bị nhiều nước tẩy chay, bỗng trở nên mới mẻ và thịnh hành ở HN và Việt Nam. Ta đã thấy kết quả tội nghiệp của việc nhặt nhạnh kiến trúc Trung Quốc Hàn Quốc, những toà nhà không linh hồn được đua nhau đẩy lên cao hết cỡ để kiếm lợi nhuận tối đa bất luận hậu quả thế nào.

Sự tham nhũng gần như không bị ngăn cản của một hệ thống vận hành ráo riết khiến cho mỗi toà nhà cao tầng có thể biến thành những lò nướng người nếu có xẩy ra hoả hoạn. Theo thống kê của ngành phòng cháy chữa cháy, khoảng 90% toà nhà cao tầng đã xây hiện nay không trang bị hoặc trang bị rất hời hợt về thiết bị báo cháy, chống cháy và thoát hiểm, nhìn chung là rất ít khả năng vận hành. Các nhà đầu tư và quản lý cao ốc đã kiếm rất nhiều tiền và còn tiếp tục móc túi người tiêu dùng bằng nhiều lối bội tín.

Linh hồn: Đốt đuốc đi tìm bản sắc

Trong phố HN mà chúng ta vẫn mơ mòng nựng tai mình bằng các mỹ từ: thanh lịch, ngàn năm văn hiến, hào hoa..., thì trớ trêu thay, lại cứ có những “hiện vật” nhỡn tiền giễu cợt đám mỹ từ đó, khiến cho người ta cứ phải hoang mang trăn trở.

Nói chuyện Thăng Long, đương nhiên phải kể đến Hồ Gươm. Thiên nhiên đã hào phóng đeo chiếc nhẫn ngọc lục bảo quý giá ấy cho HN. Hồ Gươm còn duyên bội phần bởi là nơi duy nhất có các cụ rùa thiêng ngộp thở thỉnh thoảng lên phơi nắng, tha hồ cho lũ con cháu kẻ tưởng bở kẻ lo sợ, khấp khởi đoán già đoán non.

Nhưng Hồ Gươm lâu nay lại là nơi chiếm hữu của những chúng nhân quần đùi áo may ô, đồ bộ, quần lửng nhàu nát mướt mồ hôi... của lũ lượt những người đi tập thể dục ngày vài ba bận dưới cái nhìn ngỡ ngàng của du khách.

Văn hiến và thanh lịch đó chăng? Người HN xung quanh Hồ Gươm, quanh các dẫy phố cổ ăn mặc thế sao? Đâu rồi những bóng áo dài? Kể cả áo dài của những người xay thóc giã gạo và buôn thúng bán mẹt thuở trước? Cái thuở HN còn rất nghèo, còn rất quê mùa, chỉ là nơi ở của những người đánh cá trồng hoa trồng lúa nước và buôn bán vặt vãnh nhưng hễ bước chân ra khỏi ngõ, người ta coi việc ăn vận không tươm tất là một sự tự xỉ nhục.

Thanh lịch đâu rồi? Khi những hậu sinh của họ lâu nay, trên môi luôn trề dài hai chữ “nhà quê” để miệt thị những người không làm vừa mắt họ?

Những người không làm vừa mắt họ thì quá nhiều. Có thể là những người lao động nhập cư dạt về thành phố kiếm sống và đang phục vụ nhu cầu thuê mướn của người thành phố với giá rẻ mạt và bị chính sách hộ khẩu đã lỗi thời gạt ra rìa xã hội. Cũng có thể là những chúng sinh thành công hơn họ kể cả về địa vị và tài chính do nỗ lực, do có ý chí và dám thay đổi nên nắm bắt được thời cơ... Cái từ nhà quê thường trực nhả ra trên môi nhiều người HN và cách nhìn kỳ thị ghen tỵ không những không làm cho họ thanh lịch lên mà còn thể hiện một sự tự ti thảm hại.

Rất nhiều người từ nơi khác đến đã thốt lên: ở xa nghe phố Hàng Đào Hàng Ngang, tưởng tượng đó là dãy phố hào hoa đẹp đẽ, mang bản sắc HN ghê lắm, đến nơi mới biết trông chẳng khác gì dãy phố chợ quê với rất nhiều hàng rởm hàng nhái và chủ yếu là hàng Trung Quốc.

Nhiều người, dù đã ở HN vài ba đời và kiếm được nhiều tiền nhưng vẫn nói ngọng và chửi tục, nhiều hộ gia đình dùng chung những “chuồng xí” thời đổ thùng cách đây vài thế kỷ và luôn đùn đẩy trách nhiệm vệ sinh cho nhau. Họ vận quần áo xộc xệch nhếch nhác đi quanh phố. Họ thà chen vai thích cánh cắn rứt nhau mười mấy người trong vài chục mét vuông, còn hơn là đồng lòng chung sức ra khỏi ngõ hẻm chật hẹp, tìm một lối thoát mới.

Thử vào quán ăn, nhà hàng, công sở, đường phố nào ở HN mà xem, tai bạn thường khi sẽ chứa đầy những tiếng văng tục chửi thề miệt thị mang tính côn đồ. Thậm chí, HN là nơi gần như duy nhất trên cả nước cho phép tồn tại và nhiều người còn vui vẻ chấp nhận kiểu chủ quán ăn tha hồ chửi bới khách hàng. Miếng ăn phải trả tiền ở đây thực sự là mua miếng nhục. Thế mà người HN còn ngồi ăn, ăn đi ăn lại, và nhăn nhở cười! Đó là một dạng bạo lực tinh thần không thể chối cãi.

Nhiều người Sài Gòn và khách nước ngoài lấy làm ngạc nhiên về điều này lắm, hỏi bạn bè rằng, có phải người HN lấy văng tục chửi thề và khạc nhổ làm đầu vị để khẳng định bản sắc không?

Ta có thể tựa vào đám di tích văn hoá lịch sử của cổ nhân để lại để kể lể về bản sắc và hồn cốt dân tộc? Những chùa đình miếu mạo sau trùng tu tổn phí biết bao mồ hôi nước mắt của dân, đang nói lên điều gì?

Theo nhận định của nhiều người trong giới báo chí và giới chuyên môn, thì cần phiên dịch lại cho đúng khái niệm. “Tôn tạo” cần được hiểu là “đổ tiền dân vào để phá nốt”.

Đa phần các di tích đành ngậm ngùi lâm cảnh mất mát rất nhiều cổ vật, với những những đường nét, nghi trượng mới tạo nên bằng bê tông với những bàn tay thô vụng, đứng tẽn tò phô sự giả tạo trước khách thập phương.

Sự hãi hùng quyền lực trong lề thói cầu cúng, không khí hối lộ và mua chuộc, tham lam khẩn thiết xin xỏ vật chất đã hoàn toàn thoán đoạt tín ngưỡng và tôn giáo thuần khiết. Thật đáng sợ khi vào các đền chùa đình miếu ở khu vực HN.

Khấn lạy van vái quyền lực ở cõi dương khốn khổ nhục nhã thế chưa đủ, người ta hăng hái hối lộ cõi âm, dùng cả đến những hành vi bỉ ổi do đám buôn thần bán thánh xúi giục, nhét cả tiền vào tay các pho tượng thần phật để cầu lợi. Những hòm công đức mọc lên như nấm tại các đền chùa miếu mạo là thí dụ cực kỳ nhục nhã đối với sự xuống cấp của nhân cách sống, thế giới tinh thần và tín ngưỡng của HN và người Việt Nam nói chung.

Rồng sẽ bay trên bầu trời nào? Liệu có còn thấy được rồng bay?

Còn làm gì được nữa với một HN cũ – nhiều người nói vớt vát rằng nó cổ. Không nhúc nhích được. Không sửa chữa được. Định mệnh của những kẻ sinh ra và sống ở HN này là mở mắt ra là phải nhìn thấy cái xấu, cái vỡ vụn, cái quái thai hậu quả của một nền giáo dục và kiến trúc, văn học nghệ thuật được chăng hay chớ, thiếu thẩm mỹ cho đến nay đã phát tác đến đỉnh.

Theo khảo sát của ngành du lịch thì hơn 85% du khách đến HN chỉ một lần, không quay lại. Những ưu điểm như cảnh sắc thiên nhiên phong phú tươi đẹp, giá sinh hoạt còn rẻ so với giá ở những nước phát triển, tàn tích của lối sống lộn xộn quê kiểng ở một xứ sở còn nhiều mông muội pha lẫn sự hối hả ban đầu của thời kỳ tư bản hoá còn có thể nhìn thấy ở VN không đủ kéo du khách trở lại bởi sự bẩn thỉu cổ lỗ của những phương tiện đi lại, sự thiếu linh hồn văn hoá và không giữ chữ tín của dịch vụ cùng tai nạn giao thông rình rập.

Phác thảo bức tranh HN

Để mô tả bức tranh HN ngày nay, lại là những nét phác thảo “nhát gừng”, làm nhức mắt người xem.

HN là:

Là khoảng 700 cái hồ tự nhiên hồi đầu thế kỷ 20 nay đã bị ám sát gần hết, chỉ còn khoảng 44 chiếc, và đang biến thành ao.

Là mấy dòng sông đẹp đựơc biến thành cống rãnh.

Là phố cũ HN bẩn thỉu, nhếch nhác được tự an ủi thành phố cổ và mấy chục năm nay vẫn chưa biết nên bảo tồn và tôn tạo thế nào.

Là hầu hết di tích gặp nạn trùng tu tôn tạo mà hồn lìa khỏi xác.

Là một nền học thuật và văn hoá phong tục lễ nhạc dựa vào chữ Hán và văn hoá Trung hoa làm gốc và ngày nay nhiều người còn nô lệ tới mức khấn khứa cầu xin van vái cũng phải bằng chữ nho (chữ Hán), trong khi 99,9% thần phật ông bà cha mẹ tổ tiên ngự ở trên kia không biết lấy một chữ Hán bẻ đôi.

HN là nơi nhiều người tham nhũng nhất nước. HN là nơi tỉ lệ người cân gian đong thiếu, trộm ngày cướp ngày, nói năng tục tĩu và nói xấu sau lưng nhau nhiều nhất nước và văn hoá thô tục được người ta sử dụng như một cách khẳng định cá tính và ăn trên ngồi trốc thiên hạ.

Những đường phố thơ mộng của HN xưa, nay là những dòng sông người ăn mặc xấu xí bởi áo chống nóng khăn bịt mặt vì quá ô nhiễm, như cả một thế giới khủng bố, một thế giới nặc danh, đi lại hết đờ đẫn là náo loạn trong tiếng động cơ xe rền vang và tiếng còi xé tai. Xê dịch như một đàn kiến đã bị tước bỏ lý trí.

Những công trình chào mừng ngàn năm Thăng Long chủ yếu mang tính hình thức, chủ yếu đầu tư vào lễ hội và công trình xây dựng tốn kém đáng ngờ, mang tính đối phó ăn xổi ở thì...

Cái đẹp và văn hiến Thăng Long, đương nhiên chưa phải đã chết. Nhưng khi cái đẹp chỉ còn rơi rớt đâu đó mà ngoi ngóp ngộp thở trong cái xấu, cái thô lậu, con người vin vào đâu để đảm bảo cho sáng tạo tương lai?

Văn hiến là gì? Có thể có nhiều cách hiểu.

Nhưng không thể quan niệm văn hiến như một mớ thư tịch, khuôn phép, trước tác ...đã định hình và được đóng thành khuôn mẫu. Văn hiến được xây dựng, bồi đắp từ các cư dân trong cộng đồng, luôn vận động và thích ứng để cuối cùng, phục vụ cho nền văn minh và chất lượng sống của con người. Về đại thể, văn hiến chỉ trạng thái phát triển của mỗi dân tộc. Trạng thái đó bộc lộ khả năng khắc phục tình trạng sơ khai, thấp kém lạc hậu để vươn tới sự tiến bộ, cao đẹp hơn, với sự phong phú của đời sống tinh thần. Văn hiến còn bao gồm một nội dung hết sức quan trọng khác, là phải tạo môi trường đào tạo được những con người ưu tú cả về trí tuệ, phẩm cách, tài năng cho đất nước.

Một khi nền văn hiến suy vi, đương nhiên ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống của con người.

Ám sát văn hiến, cũng có nghĩa là một nền văn minh và tương lai bị ám sát.

Lâu nay, người lạc quan nhất thì cũng nhận thấy rằng nền văn hiến HN đã suy vi tột độ. Thì phải có thủ phạm chứ.

Nếu nhận diện không trúng thủ phạm, lại tự an ủi bằng cách đổ quanh cho nhau, thì nền văn hiến lại cứ bị “ám sát” tiếp.

Ai?

Dân nhập cư đã “ám sát” văn hiến?

Một số người HN thường hay nói rằng, chúng tôi vốn thanh lịch lắm, chúng tôi làm nên nền văn hiến Thăng Long, chẳng qua dân nhập cư tứ chiếng đến đây bê nguyên những thói hư tật xấu của họ về làm xấu mặt thủ đô đấy thôi.

Có đúng không? Phải chăng người HN đã bắt được thủ phạm ám sát nền văn hiến Thăng Long và chỉ đích danh: dân nhập cư!

Vậy, dân nhập cư là ai?

Quan niệm về dân nhập cư càng ngày càng mở rộng nội hàm. Dân nhập cư bao gồm những người đến từ các địa phương trong cả nước và cả đến từ các quốc gia khác trên thế giới.

Ta hãy xét xem, có phải dân nhập cư là thủ phạm ám sát nền văn hiến không?

HN, vốn xưa là Đại La thành, dân cư thưa thớt, đánh cá buôn bán nhỏ và cày ruộng. HN năm 2010 dân số khoảng 5 triệu người. Và trong một tương lai gần, HN là thủ đô có tới khoảng 10 triệu dân.

Ta có thể nhìn rõ trong dân số hùng hậu đó, tỉ lệ cơ bản là người nhập cư.

Về cội nguồn, HN từ trước đến nay, là TP của người nhập cư. Ngay cả Lý Thái Tổ – tức Lý Công Uẩn – người sáng lập kinh thành Thăng Long lại càng đích thị là dân nghèo nông thôn từ ngôi làng heo hút Cổ Pháp, Tiên Sơn, Hà Bắc nhập cư về kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) rồi về HN. Đến Hồ Chí Minh – người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà – cũng là dân nhập cư. Và hiện nay, tỉ lệ những người nhập cư chiếm phần lớn trong hầu khắp các cấp lãnh đạo đảng và chính quyền VN, chưa kể các tầng lớp văn nghệ sĩ và các nhà khoa học, nhà kinh doanh...

Chính bản thân người nhập cư, bằng mồ hôi nước mắt và máu của mình, đã làm nên HN, từ thuở bán khai, từ thuở Đại La thành, rồi cho đến khi Lý Thái tổ dời đô từ Kinh Hoa Lư về, năm 1010, đặt tên là Thăng Long thành.

Bởi thế, sẽ thậm vô lý, nếu quan niệm HN tách rời khỏi những người nhập cư và ngược lại.

HN là Kẻ chợ. Cội nguồn HN là Tứ chiếng. Động mạch nuôi sống kinh đô là hợp lưu của những dòng máu tứ chiếng. Bản chất của kinh đô là dung nạp. Là cái miệng phễu tham lam không đáy thu hút nhân tài tứ chiếng đem về xây dựng, tôn tạo nên nền kinh tế, nền văn hiến và cuối cùng là để tạo nên nền văn minh Thủ đô, tạo nên một kinh thành ánh sáng về mọi mặt, để làm đầu tàu cho cả nước đi tới tương lai tươi sáng.

Nếu một thủ đô, một thành phố, ngay cả một vùng nông thôn, mà không thu hút được người nhập cư, để thu hút tài năng, kinh nghiệm, sức sáng tạo của tứ xứ về làm giàu và làm vui cho vùng đất mình, thì đó là một xứ sở tù đọng và rất dễ chết yểu do bế quan toả cảng và tăm tối.

Đất Thủ đô thời phong kiến là nơi tổ chức những cuộc thi đình và nhiều cuộc thi khác để chọn người tài. Nơi đây trong nhiều năm là cơ hội rồng mây của những hàn sĩ thức chảy máu mắt, dùng ánh sáng đom đóm để học hành tu luyện. Qua lối mở của cách quản lý nhân khẩu và cư trú, qua những cuộc sát hạch ngặt nghèo, người nghèo có năng lực cũng được ngang bằng cơ hội với những công tử, những phú hào trong việc được vua giao những trọng trách gánh vác sơn hà xã tắc và trở nên sang quý bằng kiến thức và ý chí.

Tiếp nối truyền thống đó, đất thủ đô trong chừng ấy năm cho đến ngày nay, đã vớt vát được nhiều học sinh nghèo thực sự có năng lực và bền bỉ. Bằng thi cử, bằng nỗ lực, họ đã có nhiều cơ hội gia nhập vào đội ngũ trí thức và tầng lớp kinh doanh, tầng lớp lao động công nghệ cao, làm nên dưỡng chất nuôi sống HN cả về tinh thần và vật chất.

Cần phải phân định rõ rằng, nếu nền văn hiến HN có bị suy vi, hay những tình trạng tồi tệ đó xẩy ra ở bất kỳ nơi đâu tại VN và trên thế giới, thì hoàn toàn không chỉ do dân nhập cư, cũng không chỉ do dân sở tại (cần nói rõ là dân HN gốc là dân nhập cư sớm hơn so với dân HN mới nhập cư gần đây). Đổ tội cho dân nhập cư là đổ tội cho chính mình. Đó là một nhầm lẫn khiến cho tình trạng càng thêm thảm hại.

Và do nhầm lẫn về nhận định “thủ phạm”, nên gần đây, có một số biện pháp từ phía những người có trách nhiệm thể hiện một thái độ phân biệt đối xử rất rõ ràng với người nhập cư HN.

Cụ Lý Công Uẩn bị từ chối nhập cư

UBND TP HN hiện có dự án Luật Thủ đô (DL) trình Quốc hội (đã soạn thảo đến lần thứ 4 – dự dịnh ban hành nhân kỷ niệm ngàn năm Thăng Long nhưng có nhiều ý kiến phản đối nên tạm hoãn, dự định thông qua và công bố năm 2010). Trong bản DL có nhiều vấn đề bất cập.

Thứ nhất là, có cần phải ban hành luật Thủ đô không?

Trước hết, ban hành Luật Thủ đô là không hợp hiến. Theo ông Trần Thế Vượng, Trưởng Ban dân nguyện của Quốc hội, Hiến pháp không có quy định riêng về Thủ đô. Ý kiến của nhiều luật gia và đại biểu Quốc hội là có một số điều DL trái với Hiến pháp. Chẳng hạn quy định cho HĐND TP HN quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong khi Hiến pháp quy định chỉ có Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Rõ ràng, nếu ban hành Luật thủ đô thì các thành phố khác cũng có cớ để xin ban hành luật riêng cho các tỉnh, thành phố của họ. Chẳng hạn, TP Sài Gòn, là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, đóng góp phần lớn GDP, họ có lý do để đề nghị ban hành Luật TP đặc thù? Điều này sẽ dẫn tới tình trạng khu biệt và cát cứ quyền lực, dễ bị lạm dụng.

Theo công bố của Bộ Tư pháp, trên thế giới rất hiếm nước có luật thủ đô, chỉ trừ một số nước theo mô hình Liên bang như Canađa, Ấn Độ... Cho một thủ đô, chỉ cần quy chế là đủ.

Thứ hai, DL có những quy định ngăn trở quyền tự do đi lại và tự do cư trú của công dân như điều 68, điều 55 của Hiến pháp và điều 5 Bộ luật lao động VN. Bên cạnh đó, những quy định này cũng vi phạm điều 23 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá mà VN đã gia nhập và ký cam kết thực hiện từ nhiều năm nay.

Theo DL, người nhập cư phải tạm trú liên tục 5 năm mới có hy vọng được chấp nhận thường trú HN, trong khi Luật cư trú quy định một năm là đủ điều kiện. Chưa kể một bất công khác: khoản 2 điều 19 dự thảo quy định về điều kiện làm việc tại HN phải có Giấy phép lao động do Sở Thương binh Xã hội của thành phố cấp. Đây là một điều khoản gây kinh hoàng cho những công dân đã thấm thía thế nào là thủ tục hành chính và nạn giấy tờ ở HN nói riêng và VN nói chung!

Trên thực tế, việc phân biệt đối xử ấy cũng sẽ không ngăn cản được dòng công dân nhập cư về HN do điều chỉnh tự nhiên của chuyển dịch cơ học dân số. Dẫu cho số người này sẽ họ bị bần cùng hoá do bị phân biệt đối xử, con cái của họ bị gạt ra ngoài lề xã hội không được vào các trường học, bệnh viện, các loại bảo hiểm và phúc lợi xã hội khác như đã từng xẩy ra... Như thế, chẳng những không kiểm soát được mà còn là ngược đãi người lao động lương thiện và làm cho bộ mặt thủ đô càng nhếch nhác hơn.

Xét về phương diện hợp hiến cũng như hợp tình hợp lý, việc ban hành Luật thủ đô là không cần thiết, là xác định sai thủ phạm “ám sát” nền văn hiến và văn minh HN, gây phân biệt đối xử, nạn giấy tờ, nạn sách nhiễu, ảnh hưởng đến quyền con người và hạn chế sự phát triển tự nhiên của Thủ đô.

Để xây dựng một Thủ đô HN có văn hiến và văn minh, không thể dùng các biện pháp hành chính thô bạo, hẹp hòi, những luật lệ riêng biệt để hạn chế người nhập cư và ngăn trở cơ hội thi thố tài năng, cơ hội việc làm của những người nghèo trong cả nước.

Hầu hết các đế vương khởi nghiệp tại Việt Nam đều xuất thân từ con nhà nghèo và từ những miền xa tới, do tài năng mà “nhập cư” về kinh đô. Giả sử thời đó, các đế chế, hoặc những vị cai quản đất Hoa Lư, đất Thăng Long hay đất Huế...mà có chủ trương hạn chế người nghèo nhập cư như bây giờ, thì lịch sử VN đã không là những trang sử anh hùng quật cường như thế này.

Một so sánh có thể khập khiễng, nhưng không phải không có cớ để liên tưởng, dù là một giả tưởng hài hước. Nếu hồi cuối thế kỷ 10, đầu thế kỷ 11, tại kinh đô Hoa Lư, thời Lê Ngọa Triều – vị vua nổi tiếng tàn ác nhất trong lịch sử VN – mà áp dụng những điều khoản hạn chế người nhập cư tương tự dự luật Thủ đô bây giờ, thì Lý Công Uẩn sẽ bị trục xuất ra khỏi nội đô Hoa Lư. Không có cơ hội Lý Công Uẩn vào kinh, lĩnh chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, có dịp lên ngôi vua khi Lê Ngọa Triều chết. Thế càng không có chuyện dời đô, sáng lập kinh thành Thăng Long vào mùa xuân 1010!

Máu và nước mắt cùng trí tuệ, tài năng của dân tứ xứ đã để lại, đã hoà nhập cùng người HN bản địa để làm nên kinh đô này từ bao đời. Phân biệt đối xử, bạc đãi họ bằng những quyết định hành chính vội vàng, vi hiến là xoá bỏ cơ may duy nhất còn lại của HN, và quan trọng hơn, xoá bỏ điều kiện sinh tồn cốt tử của đất Kẻ chợ này.

Vậy thủ phạm “ám sát” nền văn hiến là ai?

Về trình độ văn hoá mà nói, thì trình độ cư dân HN hiện nay cao hơn rất nhiều so với cái thời còn gọi là Tràng An. Thời đó dân HN nội đô còn lội bùn, răng đen mắt toét, nhiều người mù chữ. Cái lối “giấy rách giữ lề”, ăn mặc cử chỉ thanh lịch, chỉ xuất phát từ trong số rất ít các nhà nho, nhà quan lại...

Số lượng người này chỉ đếm trên đầu ngón tay. Thế nhưng ảnh hưởng của lề thói ấy lại có sức lan truyền lớn đến xã hội, khiến cho những người mù chữ nơi thôn quê cũng tự thấy thuyết phục bởi cái hay, cái đẹp mà làm theo.

Cái hay, cái đẹp trong văn hoá và lề thói không phải bao giờ cũng đi cùng với cái tiện lợi và điều kiện vật chất. Chẳng hạn như thói quen mặc áo dài (có thể là áo tứ thân với nữ, áo lương khăn xếp với nam...) khi đi ra cộng đồng. Thời ấy, người dân VN còn rất nghèo, nhiều khi cả mấy người trong nhà mới chung nhau may được một manh áo lành, mà công việc lao động thì rất lam lũ, nặng nhọc, đường sá thì lẩy lội. Còn ngày nay, khi vải vóc và điều kiện mua sắm, điều kiện lao động, giao thông đi lại được cải thiện lên hàng vài chục lần, thì người HN và nhiều nơi trong cả nước lại ăn mặc xốc xếch, đồ bộ quăn queo, quần đùi áo may ô đi ra đường và đua nhau nói tục chửi bậy, đua nhau côn đồ lừa lọc.

Như thế, vấn đề nằm ở đâu?

Để trả lời câu hỏi này, cần những công trình khảo cứu nghiêm túc của các nhà chuyên môn để đề ra những biện pháp hữu hiệu cứu vãn.

Một điều mà mọi người đều thừa nhận, là chính những người có vị thế, có trách nhiệm, các chức sắc, các nhà quản lý văn hoá, các văn nghệ sĩ, trí thức trong xã hội, trước hết, phải có trách nhiệm trở thành những hình mẫu đẹp, thanh lịch, có trí tuệ, phẩm cách, ứng xử đẹp... Sự tuỳ tiện, tham nhũng, thiếu thẩm mỹ, kém văn hoá, tính vật chất thực dụng thô thiển ở nhiều người trong đội ngũ tầng lớp trên này đã khiến dân chúng tuyệt vọng, thậm chí còn muốn phá bĩnh như một cách đối phó hoặc xả bớt nỗi tức giận.
Cần phải thừa nhận một thực tế rằng, thủ phạm của việc ám sát văn hiến, trước hết nằm ở chính những người có trách nhiệm.Với cây quyền trượng trong tay, những người lãnh đạo có thể xây dựng văn hiến hoặc nhanh chóng ám sát văn hiến.

Để cứu vãn: cần cam kết một Khế ước văn minh

Với thời đại mang vận tốc chóng mặt như hiện nay, nếu để tính dã thú tự do khuynh loát, thì không khác gì ta mua chiếc máy bay phản lực rồi đặt một dã thú lên ghế điều khiển bay. Dã thú di chuyển với tốc độ máy bay phản lực, tác hại là khôn lường.

Nếu những người quản lý xã hội không kiềm chế được tính dã thú, thì mọi nỗ lực của cộng đồng sẽ bị vô hiệu hoá và mỗi ngày qua là lùi một bước trở về thời dã man. J.J.Rouseau, nhà văn, nhà triết học thuộc trào lưu Khai sáng ảnh hưởng đến cuộc Cách mạng Pháp 1789, ngay từ năm 1762 đã cay đắng mà viết rằng “Những tâm hồn thấp kém không thể thấu hiểu các bậc vĩ nhân. Cũng như những kẻ nô lệ thì nhe răng cười nhạo khi nghe hai tiếng Tự do...”.

Một đất nước muốn phát triển, đạt đến mục tiêu hạnh phúc cho mỗi người, thì đất nước ấy không thể thiếu những nhà lãnh đạo và công dân có tri thức, có lương tri, có lòng cao thượng và văn minh. Sự tăm tối và giáo điều, sự nô lệ trong hành xử và tư tưởng, nhất là trong thời đại ngày nay, chắc chắn sẽ đưa đến thảm hoạ.

Nhiều kinh thành sở dĩ trở thành Kinh đô ánh sáng, chính vì trước hết, bao nhiêu thế hệ các điền chủ, các chức sắc, các nhà quý tộc và các tổng thống, các Thủ tướng, lãnh đạo chính phủ và các địa phương, thành phố sau này đã biết chịu học hành, rèn luyện, học cách thưởng thức cái đẹp, trau dồi nhân cách và thẩm mỹ, bổ sung và cập nhật kiến thức về văn hoá, khoa học,văn học nghệ thuật.

Trong cuộc đời của họ, nhiều người đã đầu tư phần lớn tài sản cho các công trình kiến trúc, nghệ thuật, bảo trợ sáng tác cho các hoạ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ, nhà khoa học… có thực tài và sau đó, những công trình này lập tức trở thành tài sản quốc gia.

Họ hiểu rất rõ một chân lý: sự sang trọng và quý phái, trước hết và cuối cùng, chỉ là sự sang trọng về văn hoá và văn minh chứ không nằm ở tiền bạc. Trọc phú là một tình trạng đáng xấu hổ. Paris hẳn đã khác nếu các nhà chức sắc của Pháp chỉ quan tâm đến việc tiệc tùng, vui chơi giải trí, ăn nhậu hưởng lạc, làm nô lệ cho tiền bạc và không hiểu biết gì về văn học nghệ thuật...

Rõ ràng, trình độ văn hiến và văn minh của một địa phương nào đó tự nó quảng cáo hoặc tố cáo, tự nó phơi bày tầm nhìn, khả năng lường trước vấn đề, trình độ, trách nhiệm và thẩm mỹ của những chức sắc - những người có trách nhiệm - giai cấp lãnh đạo - tầng lớp trên của địa phương đó. Thực trạng ấy, dẫu có dùng các phương tiện vật chất để che đậy cũng không có tác dụng và càng che đậy chỉ càng thảm hại mà thôi.

Trụ đỡ cho văn hiến, hạnh phúc cho mỗi công dân cũng như của mỗi quốc gia, chính là mọi người phải cam kết một Khế ước văn minh và hành động. Trước hết từ phía những nhà quản lý rồi tới các công dân.

Trong quá khứ, cha ông ta rất cần cù lao động, nhưng đã để lỡ cơ hội đổi mới và phát triển để theo kịp đà tiến của những nước như Nhật Bản. Nhật Bản đã từ một nước kiệt quệ, phong kiến bảo thủ, lệ thuộc giáo lý Khổng Tử và Trung Quốc, trở nên một cường quốc đứng thứ ba thế giới về kinh tế, xã hội cũng như các phát minh sáng tạo, tự do dân chủ và phúc lợi cho người dân. Cũng nhờ thế, Nhật Bản là nơi có nền văn hiến bền vững thuộc loại nhất nhì thế giới. Có được điều đó là nhờ tinh thần khai sáng quyết liệt, mang tên “Thoát Á luận” mà Nhật Bản đã tận dụng rất hiệu quả trong những năm đầu thế kỷ XX. Đặc biệt tinh thần khai sáng này được hưởng ứng và nhân rộng trong giới trí thức và văn nghệ sĩ Nhật Bản, được sự thực hiện mạnh mẽ của vua Minh Trị.

Như thế, nhờ những cam kết văn minh, nhìn thẳng vào thực trạng của chính mình và nhận thức rõ những điều kiện và thách thức của thời đại mà Nhật Bản đã thoát khỏi cái vỏ chật hẹp, vươn mình lớn dậy thành người khổng lồ. Cũng chỉ cần một khởi đầu quyết liệt khai sáng như vậy, cả trăm năm nay, Nhật Bản đã vững bước tiến trên con đường phát triển, mang vận tốc nằm trong tốp các nước tiền phong nhất của thời đại.

Trong khi đó, rất nhiều nước trong phần còn lại của thế giới, cho đến nay, vẫn tiếp tục trong mớ bòng bong tự mãn của mình, chưa thôi bị giam hãm trong những chiếc “túi da” chật hẹp, luôn sợ hãi và chỉ trích kẻ khác chỉ để cố thủ, chỉ loay hoay cố gắng trong việc bắt chước, mô phỏng từ văn hoá tới công nghệ, bán sức lao động rẻ mạt hoặc cho thuê, bán đất đai tài nguyên ngày càng cạn kiệt. Càng sợ hãi càng cố thủ, những đất nước phát triển theo kiểu ấy càng dễ mất danh dự, thời cơ, biến thành bãi thải công nghệ của các nước phát triển, hoặc bằng mọi giá cung cấp hàng hoá và sức lao động giá rẻ nhưng kém phẩm chất, mang tính lừa đảo, cho đến lúc bị thế giới tẩy chay.

Việt Nam đang cần một sự khai sáng quyết liệt. Một cam kết thực hiện Khế ước văn minh. Nếu không bắt đầu từ bây giờ, sẽ là quá muộn và tất cả chúng ta đều bị tổn thương, đều bị lụi tàn bởi tình trạng dã thú này, kể cả những người ở tầng lớp có quyền lực lớn.

Có những vận hội mới. Nếu biết tận dụng, sẽ vãn hồi nền văn hiến, đem lại văn minh, hạnh phúc và danh dự cho người Việt Nam. /.