Thursday, November 21, 2013

CHUYỆN NGƯỜI XƯA CHỌN ĐẤT LÀM NHÀ

Phong thủy, chuyện người xưa chọn đất làm nhà

Phong  thủy tồn tại trên hai nghìn năm mà cực thịnh là các triều nhà Minh, nhà Thanh bên Tàu, vào khoảng năm 1369 đến đầu thế kỷ này.
Hai khái niệm mà nhiều người hoà trộn thành một, hoặc là vô tình hay hữu ý không phân biệt đó là phong thủy và thuật phong thủy. Phong thủy là địa thế, địa hình, là đất là nước quanh ta. Phong thủy là môi trường mà con người tồn tại trong đó. Thuật phong thủy là những luận lý, những suy nghĩ của con người và các thích ứng cuộc sống của con người khi nằm trong cái phong thủy ấy. Như thế phong thủy là tồn tại khách quan còn thuật phong thủy là sản phẩm của ý thức liên quan đến phong thủy.
 Phong thủy còn có ý nghĩa rộng là những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, về sao trời, vũ trụ, về trái đất, về khí tượng, về địa thế làm nhà, đặt mồ mả. Nên vừa gần với con người lại vừa xa với con người, lý luận cơ bản của phong thủy (kinh dịch, âm dương ngũ hành) thì rất trừu tượng, thuật ngữ sử dụng thì khác lạ với ngôn từ hàng ngày tạo ra cho phong thủy một dạng vẻ bí hiểm. Đọc phong thủy và nghe về phong thủy thấy một không khí sống, chết đan xen, đất trời hoà nhập, rõ không ra rõ mờ không ra mờ làm cho quần chúng tin thì có thể tin, có thể không tin thì cũng sợ. Thấy phong thủy lại thêu dệt bao chuyện ly kỳ, gán một số quan niệm phong thủy vào các sự kiện lịch sử, tô vẽ cho phong thủy có bộ mặt thần bí.
Lý luận và thực tiễn của phong thủy vô cùng phức tạp. Để xem một thế đất đặt mả, phần lớn thầy địa lý phải ở gần gia chủ cả năm trời, sáng cơm rượu rồi đi ngắm nghiá đất trời rong ruổi ngoài đồng. Chiều về đọc sách (chẳng hiểu sách gì), khểnh duỗi tư duy để rồi nhập nhoạng tối lại thành kính và đợi chờ đất phát. Chờ mãi không thấy đất phát lại ngẫm nghĩ, tính suy hay là tại mình tâm chưa thành, lòng chưa kính hay thậm chí còn hối vì đãi thầy chưa hậu.
Ngay vài năm gần đây trong câu chuyện làm nhà ở ta, chắc không ít người cậy thầy phong thủy. Vào những năm 1991- 1993 nhà đất vào cơn thịnh vượng thì nhiều người làm nên ăn ra tưởng đâu như nhờ thầy mà phát. Nhưng sang năm 1995 – 1996 nhà vay tiền làm, những mong Tây thuê để thu hồi vốn nhưng biển treo “house for rent” cả thời gian dài dài chẳng có ai ngó hỏi. Nợ vẫn chất chồng, lãi mẹ đẻ lãi con, chắc cũng chẳng có ai đi trách thầy phong thủy. Thầy phong thủy nào chẳng nói như tép nhảy, lại đệm những từ như minh đườmg, huyền vũ, bạch hổ, thanh long, chủ nhà chỉ còn cách gật đầu lia lịa xuýt xoa khen thầy và tự hào mình đã được đặt ngang mình cùng thầy đạo cao đức trọng.
Nước Trung Hoa từ sau 1949 thuật phong thủy bị đả kích nặng nề, không dám công khai lộ diện nhưng nó lại được Hồng Kông, Đài Loan nâng đỡ. Nó cứ dai dẳng tồn tại có lúc rõ hình có lúc lu mờ, kín đáo. Vài năm gần đây, trong không khí cải cách chung về kinh tế ở Trung Quốc người ta lại nghiên cứu và bàn luận về phong thủy trên sách vở.
Điều khẳng định là nó tồn tại dai dẳng. Vậy cái lý để nó tồn tại là gì. Có người xếp phong thủy như một hiện tượng văn hoá, vì nó sống trong phần hồn của con người.
Trong phong thủy và thuật phong thủy có cái lý giải được theo khoa học là địa hình, địa thế làm nhà chịu ảnh hưởng của địa chất công trình, địa chất thủy văn, vi khí hậu. Xem thế đất làm nhà chính là chọn theo ngôi nhà theo các điều kiện thuận lợi về phương vị, khí hậu, địa chất công trình tốt, địa chất thủy văn phù hợp. Đây chính là khâu điều tra cơ bản để chọn địa điểm xây dựng. Từ môi trường vi khí hậu tốt mà chủ nhà có sức khoẻ tốt, tâm lý tốt, làm nên ăn ra. Đấy là những nhân tố tích cực.
Làm cho phong thủy thần bí, võ đoán những thế đất này thì đau mắt, thế đất kia con gái lại goá chồng ...là điều chưa hẳn dễ tin.
Đọc phong thủy, tìm hiểu phong thủy để tìm ra yếu tố để nó tồn tại như hiện tượng văn hoá, dùng nhãn quan khoa học để khen cái được, chê cái bịa đặt là điều cần làm. Đối chiếu những điều đã có trong phong thủy và thuật phong thủy, gạn đục khơi trong với phong thủy là điều có thể làm được.
 Phong thủy gắn liền với đất đai, với phương thức. Tri thức về phong thuỷ không thể tách rời với những khái niệm cơ bản về phương vị hiểu theo cách của người Tàu cổ.
 Để xác định phương vị khi đi khảo sát đất đai, nghề phong thuỷ dùng dụng cụ gọi là la bàn. La bàn lớn gọi là La kinh. La bàn nhỏ gọi là trốc long. Trên la bàn, la kinh hay trốc long vẽ nhiều vòng tròn và các vạch xuyên tâm chia phương vị.
 Đời Minh có Từ Chi Mạc soạn “La kinh đỉnh môn trâm” có hai quyển chỉ nam châm. Sách này cho rằng la kinh lúc đó có 24 hướng, bỏ quên 12 chi của tiên thiên, nên thêm 12 chi, chia làm 33 tầng, trình bày bằng chữ và vẽ hình. Ngoài ra sách còn một phụ lục do Chu Chi Tương vẽ.
 Thẩm Thăng đời Minh cũng soạn “La kinh đỉnh môn trâm” bàn về tiêu nạp khí trong 72 long mạch.
 Chính giữa la bàn gắn một kim nam châm có trụ quay. Phần dưới kim là các vòng trong đồng tâm và những tia đi qua trục kim nam châm ghi phương vị. Trong các vòng tròn (thường là ba vòng) thì vòng trong cùng là vòng địa bàn, vòng giữa là vòng nhân bàn và vòng ngoài cùng là vòng thiên bàn. La kinh có thể có tới 13 vòng.
 Nếu chỉ có ba vòng thì vòng thiên bàn dùng xem hướng nước tụ, nước chảy. Vòng địa bàn để ấn định long mạch. Vòng nhân bàn để luận sự tốt xấu của các gò đống (mà phong thuỷ gọi là các sa). Vòng tròn được chia thành 24 ô, mỗi ô ứng với 150
 Nếu lấy vòng tròn địa bàn làm gốc thì vòng thiên bàn lệch về phải nửa ô và vòng nhân bàn lệch về phía trái nửa ô.
 Tại tâm thường làm một vòng nhỏ, chia thành hình âm, dương. Nhận thức là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. Tứ tượng là Thái dương,Thái âm,Thiếu dương,Thiếu âm. Đó chính là bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Cách xác định phương vị trước thời Tần: Khi đi, trước mặt là Chu Tước, sau lưng là Huyền Vũ, còn bên tả là Thanh Long thì bên hữu là Bạch Hỗ. Điều này có nghĩa là, trước mặt là Nam thì sau lương là Bắc, bên trái là Đông thì bên phải là Tây.
 Chính Bắc ghi chữ Tý, chính Nam ghi chữ Ngọ, chính Đông ghi chữ Mão, chính Tây ghi chữ Dậu, kể theo chiều kim đồng hồ thì lần lượt 24 ô như sau: Mão, ất, Thìn, Tốn,Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp.
 Chuyện lưu truyền khi Quản Lộ (đời Tam Quốc) đi về phía Tây gặp mộ Vô Hưu Kiệm thì than thở, không vui mà nhận xét: Cây cối tuy nhiều mà từ lâu không có bóng, bia mộ lời ghi hoa mỹ nhưng không có hậu để giữ gìn, huyền vũ khuất mất đầu, thanh long không có chân, bạch hổ đang ngậm xác chết, chu tước đang rên rỉ, mối nguy đã phục khắp bốn bề, họa diệt tộc ắt là sắp đến, không quá hai năm đã ứng nghiệm.
 Quách Phác trong “Táng Kinh” dặn rằng: Thanh Long bên trái, Bạch Hổ bên phải, Chu Tước đằng trước, Huyền Vũ đằng sau, muốn được mồ yên mả đẹp Huyền Vũ phải cúi đầu, Chu Tước dang cánh Thanh Long uốn khúc, Bạch Hổ quy thuận. Khi nhìn thế đất đồng thời phải nhìn màu đất. Nếu ta thăm đàn tế xã tắc ở công viên Trung Sơn Bắc Kinh thì thấy phương đông Thanh Long , đất màu xanh cây cỏ, phương tây Bạch Hổ màu đất trắng bạc, phương nam Chu Tước đất đỏ màu hồng, phương bắc Huyền Vũ đất có màu đen. Giữa đàn cúng, đất màu vàng tượng trưng cho người.
 Tứ tượng sinh Bát quái, ngoài tứ tượng đã có lặp lại trong Bát quái còn thêm bốn hướng của bát quái là: Càn, Khôn,Cấn,Tốn. Đó chính là các hướng Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam, Đông Bắc.
 Như thế phương Đông có Giáp, Mão, ất, Đông Nam có Thìn,Tốn, Tỵ, Nam có Bính, Ngọ, Đinh, Tây Nam có Mùi, Khôn, Thân, Tây có Canh, Dậu, Tân, Tây Bắc có Tuất, Càn, Hợi, Bắc có Nhâm, Tý, Quý, Đông Bắc có Sửu, Cấn, Dần.
 Các hướng thuộc địa chi là: Tý, Sữu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi (12 hướng đia chỉ). Tám hướng thuộc thập can là: Giáp, ất, Bính, Đinh, Canh,Tân, Nhâm, Quý (bỏ Mậu, Kỷ trong thập can).
Các hướng xếp đối xứng gọi là bát sơn đối diện gồm: Càn-Tốn, Khảm-Ly, Cấn-Khôn, Chấn- Đoài. Bắc thuộc Khảm, Đông thuộc Chấn, Nam thuộc Ly, Tây thuộc Đoài.
 Phân vị theo ngũ hành thì chính giữa là hành Thổ, Bắc thuộc Hành Thuỷ, Đông thuộc Hành Mộc, Nam thuộc Hành Hoả, Tây Hành Kinh. Còn cách gọi khác: Thuỷ là Nhuận hạ, Hoả là Viên thượng, Mộc là Khúc trực, Kim là Tòng cách, Thổ là Gia tường.
 Theo Hồng Vũ cấm thư luận về Ngũ hành tương ngộ thì thuỷ giao thuỷ nam nữ tất dâm. Phương Bắc thuộc Thuỷ. Nếu có nước thâm nhập từ phương Bắc vào khu đất ta ở hay mộ phần thì con cái không ổn thoả. Nếu dựng nhà quay măt hướng Nam thì sau nhà là huyền vũ. Huyền vũ phải là thế đất nhô cao, có gò thoải mới thuận mới đẹp. Gò thoải là thế huyền vũ cúi đầu. Nếu sau nhà là đầm nước hoặc vách núi dựng thì có khác gì huyền vũ mất đầu mà Quản Lộ chê bai ở trên.
 Phương Nam là Hoả mà thế đất lại nhọn khác nào như lửa gặp lửa,theo phong thuỷ thì ở đất ấy hay gặp điều kiện tụng. Phương Tây của miếng đất đới Tượng xem xét là Kim mà thế tròn (Kim) thì gia chủ sẻ giàu có, thịnh vượng. Phía đông nhà là hướng Mộc lại có thế đất dài là Mộc thì Môc Mộc tương sinh, trai gái trong nhà giàu sang phú quý.
 Ngoài ra quan hệ giữa Thiên, Địa, Nhân còn có quy ước:Tý là Nhân huyệt, Cấn là Quỷ môn, Tốn là Địa hộ, Bính là Địa huyệt, Khôn là Nhân môn, Canh là Thiên huyệt, Càn là thiên Môn.
 Trong quá trình xem xét phương vị thì Tiên thiên Bát quái của Phục Hy để phối hợp Âm Dương. Hữu Thiên bát quái của Văn Vương để xếp các Hào Tượng.
 Ra đến địa hình cụ thể thì khu đất có thế bằng phẳng là Dương thì gò đống nổi cao lại là Âm. Đât Sơn Cước cương dũng nên chọn làm nhà, đặt mộ ở nơi có mạch nhỏ (long gầy). Đất bình dương bằng phẳng nên chọn vị trí cao để toạ lạc (khởi đột). Khu đất đẹp bên trái có thanh long (mạch nước). Bên phải có bạch hổ (dường dài), thế đất đằng trước có ao đầm toả rộng (chu tước), đằng sau có gò tròn tựa lưng(huyền vũ). Long là Dương, Hổ là Âm. Long Hổ tương nhượng thì gia đinh hoà thuận, trai gái sum vầy.
 Núi chủ tĩnh (đứng yên) là Âm thì nước chảy (chủ động) là Dương. Thế đất đẹp là đất có chủ tĩnh quay đầu như động. Nước chủ động lững lờ là lỡ rộng như chảy, như không, lưu luýên dùng dằng. Núi và nước hiền hoà bên nhau, cặp kè với nhau, bảo vệ nhau, nuôi dưỡng nhau là thế đất đẹp. Kiểu luận lý như thế là dựa vào cơ sở trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Điều hoà Âm Dương là điều quan trọng. Luận Âm Dương rồi Toán ngũ Hành sao cho mọi suy tính không trùng điều xấu.
 Chọn các thế đất, cách chọn hướng, suy cho cùng sau khi loại bỏ nhũng điều thần bí và mê tín thì cũng chọn địa điểm hợp với điều kiện địa hình, địa chất công trình, địa chất thuỷ văn, vi khí hậu cho môi trường sống được thoả đáng.
 Thuật phong thuỷ nghiên cứu những vận động tự nhiên của môi trường sống của con người để mưu cầu sự tiện nghi trong cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Gặp hướng nghịch thì dùng giải pháp che nắng, chắn gió. Nóng bức quá thì dùng điều hoà nhiệt độ.
 Phong thuỷ ghi lại dấu của một hiện tượng văn hoá xưa. Đời nay biết mà xem người xưa mưu cầu tiện nghi cuộc sống ra sao.Thực ra thì người xưa chế tác ra thuật phong thuỷ cũng chỉ là cách tìm hiểu thiên nhiên và sự vận động của thiên nhiên rồi hạn chế tác động tiêu cực của thiên nhiên để chung sống vói môi trường sao có lợi cho con người. Nếu loại bỏ những điều mê tín là sự lợi dụng phong thuỷ loè bịp thiên hạ để kiếm cơm thì phong thuỷ đâu có chỉ là dị đoan.
 Phương vị theo ngủ hành thì chinh giữa là hành Thổ, Bắc thuộc hànhThuỷ, Đông thuộc hành Mộc, Nam hành Hoả, Tây hành Kim. Còn cách gọi khác: Thuỷ là nhuận hạ, Hoả là Viên thượng, Mộc la Khúc trực, Kim la Tòng cách, Thổ la Gia tường. Đó là Chính- Ngũ- Hành.                               
  Như hình này thì Thổ không ở các phương mà nằm ngay chính giữa. Thuật phong thuỷ chú ý đến toạ sơn, hướng thượng, thực tế ngũ hành chỉ sử dụng tứ hành cho nên còn có tên của ngũ hành là tứ kinh ngũ hành.
 Dần, Ngọ, Tuất hợp thành nhóm Hoả. Tỵ, Dậu, Sửu hợp thành nhóm Kim. Thân,Tý, Thìn hợp thành nhóm Thuỷ. Tân, Mão, Mùi hợp thành nhóm Mộc. Mỗi nhóm có ba phương: sinh, vượng, mộ hợp thành nên gọi là tam hợp ngũ hành.
 Bát quái ngũ hành phân biệt khác với chính ngũ hành và các loại ngũ hành khác. Bát quái ngũ hành chủ trương lấy hình thể ghép thành cụm mà luận ngũ hành. Bát quái là Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Ly, Khảm, Đoài, Tốn.
 Theo đồ tiên thiên bát quái thì Càn ở Nam, Khôn ở Bắc, Ly ở Đông, Khảm ở Tây, Đoài ở Đông Nam, Chấn ở Đông Bắc, Tốn ở Tây Nam và Cấn ở Tây Bắc. Đến hậu thiên Bát quái thị địa vị của tám quẻ hoàn toàn thay đổi.
 Sự thay đổi này do luận lý Âm Dương giao hợp nên.
 Càn là Dương thuần, hút khí âm của Khôn biến thành Tốn. Càn biến hoá lần hai thành Ly, biến hoá lần ba thành Đoài. Khôn là Âm thuần đoạt dương khí của Càn biến lần đầu thành Chấn, lần hai thành Khảm, lần ba thành Cấn. Luận vào ngũ hành thì Chấn thuộc Mộc, Canh ghép với Chấn, Hợi Mùi phối hợp với Chấn do đó Canh, Hợi, Mùi đều thuộc Mộc. Tốn thuộc Mộc, Tân ghép với Tốn do đó Tân cũng thuộc Mộc. Càn thuộc Kim, Giáp ghép với Càn nên Giáp cũng thuộc Kim. Đoài thuộc Kim. Đinh ghép với Đoài, Tỵ, Sửu phối hợp với Đoài nên Đinh Tỵ, Sửu đều thuộc Kim. Khảm thuộc Thuỷ, Khảm phối hợp với Quý, Quý thuộc Thủy, Thân, Thìn phối hợp với Khảm nên cũng thuộc Thuỷ. Ly thuộc Hoả. Càn phối hợp với Nhâm thuộc Hoả Dần, Tuất hợp với Ly nên cũng thuộc Hoả. Khôn thuộc Thổ. ất ghép với Khôn nên cũng thuộc Thổ. Bính ghép với Cấn nên Bính cũng thuộc Thổ.
 Tượng trưng của bát quái thì Càn là Trời, Khôn là Đất, Cấn là Núi, Khảm là Nước, Đoài là Đầm nước, Ly là lửa, Chấn là Sấm và Tốn là Gió.
 Bát quái chủ yếu dùng minh định phương vị. Chu Dịch chỉ rõ: Vạn vật ra đời từ Chấn, Chấn là phương Đông, bình tại Tốn, Tốn là Đông Nam, Ly là sáng sủa, vạn vật gặp nhau nên Ly là phương Nam. Thánh nhân quay mặt về phương Nam để xét việc thiên hạ. Khôn là Đất nuôi vạn vật. Đoài là giữa mùa Thu, là sở thuyết của vạn vật. Càn chỉ phương Tây Bắc, nơi âm dương sát kề nhau. Khảm là nước, là phương chính Bắc, là nơi quy tụ của vạn vật. Cấn chỉ Đông Bắc, là nơi kết thúc cũng là nơi mở đấu của mọi việc.
 Hồng phạm ngũ hành phân biệt khác trên như sau:
                Giáp Dần Thìn Tốn Mởu Khảm Tân Thân thuộc Thuỷ
                Chấn Cấn Tỵ thuộc Mộc
                Ly Nhâm Bính ất thuộc Hỏa
                Đoài Đinh Càn Hoại thuộc Kim
                Sửu Quý Khôn Canh Mùi thuộc Thổ
 Trên đây là loại ngũ hành thông dụng. Ngoài ra còn nhiều loại ngũ hành khác như Tứ sinh ngũ hành, Song sơn ngũ hành, Huyền không ngũ hành, Hướng thượng ngũ hành, Nạp Âm ngũ hành, Địa chi ngũ hành….nhiều vô kể.
 Cụ thể của phong thuỷ thì thế đất tròn là Kim, thế dài là Mộc, thế nhọn là Hoả, thế vuông là Thổ, thế như sóng gợn là Thuỷ.     
 Khi chọn đất phải dựa vào ngũ hành tương sinh mà luận đoán. Tránh ngũ hành tương khắc là điều thầy phong thuỷ tâm niệm hàng ngày.
 Tuy thế sự vận dụng ngũ hành trong phong thuỷ rất lung tung. Thầy phong thuỷ cho rằng ngũ hành là cương lĩnh của Âm Dương, là quyền của tạo hoá cho nên mọi việc trong nghề phong thuỷ đều phải dựa vào ngũ hành.
 Mọi phương án lập thành đều do lý luận dựa vào ngũ hành mà phán đoán. Hiện nay ta có thể coi rằng nhiều luận đoán là võ đoán. Tuy thế, có một số luận đoán là khả tín.
 Luận đoán kiểu ngũ hành tương ngộ, đại loại xem sự sinh – khắc ra sao, xem khi phối hợp sẽ dẫn đến kết quả thế nào. Xin dẫn ra đây để minh chứng những điều luận đoán của thầy phong thuỷ, để chúng ta thấy một luận lý , không phải đây là một cáh luận lý chung nhất và điều đúng sai còn phải bàn.
 Khi thuỷ gặp thuỷ thường dẫn đến điều không tốt, gia đình dâm loạn. Phương Bắc là thuỷ mà có nước ngấm vào nhà, vào mồ thì không tốt. Phương Nam là hoả mà có thế đất hình tam giác nhọn, như thế hoả gặp hoả thầy phong thuỷ đoán rằng ở nơi đất ấy thường sinh kiện tụng. Phương Tây thuộc Kim mà có thế đất dáng tròn (kim hình) thì nhà như thế của cải ùn ùn kéo đến. Phương Đông thuộc Mộc mà thế đất lại có hình dài (Mộc hình) gia chủ sẽ có con cái đuề huề, giàu sang phú quý.
 Đối với mảnh đất làm nhà hay nơi huyệt táng, nếu lấy vị trí ngôi nhà hay ngôi mộ làm mốc phương vị thì phong thuỷ gọi bên trái là Thanh long, bên phải là Bạch hổ, đằng trước là chu tước, miếng đất ngay sát nhà là Minh đường, đằng sau là Huyền vũ.
 Tốt nhất thì bên trái có dòng nước nhỏ chảy lững lờ cho đúng nghĩa Thanh long(con rồng xanh). Bên trái có nước chảy theo dòng, cha và con trai vinh hiển mát mặt với đời. Bên phải có Bạch hổ (hổ trắng) lại có đường dài men theo rìa đất thì con gái trong nhà đảm đang sung sướng. Bạch Hổ mà lại có đình chùa miếu mạo hoặc vũng úng ngập là điều kiêng kị. Đất ở như thế dễ sinh tử biệt trong nhà. Trước nhà có ao hồ ôm đảo nhỏ hình tròn thì con gái trong nhà vẻ vang phú quý. Chu tước có sông dài bao bọc làm thành án thư như hình cái bàn kê trước nhà, trước mộ thì con cái trong nhà gaìu sang hiển vinh. Thế đất này gọi là Thiên cát (có lầu gác nhà trời). Sau nhà thế đất đùn tròn như mây đùn,xúm xít sum vầy gọi là huyền vũ có thế bích dài (đài biếc), lộc không được để hố sâu. Truyền thuyết kể rằng sau mộ Tổ Khuất Nguyên bên Tàu có hố sâu nên ông này chết uổng.
 Núi non, sông nước, thiên nhiên, gò đống long mách sắp xếp trên mặt đất đã tạo cho hoạ phúc cho người lưu tới. Thầy phong thuỷ cho rằng mình có nhiệm vụ tìm ra chỗ ở, chỗ táng cho người ở, con cháu người táng được điều lành, được phúc ấm. Muốn có thế đất như ý phải học qua lý khí và thấu tìm. Điều hết sức quan trọng trong phong thuỷ bản thân người thầy phải tu nhân tích đức. Tiên tích đức, hậu tầm long: Cái gốc của tìm đất là thầy phải ăn ở, suy nghĩ cho có nhân bản, có đạo lý làm người. Đã gọi là tích đức thì không phải ngày một ngày hai mà có ngay đựoc. Chỉ hăm hở tìm đất thì sẽ bị trời che mất mắt, lòng dạ tối tăm, đất đẹp trước mắt mà như mù, không thấy được. Đức sáng thì có khi thế đất hay, chẳng cần luận lý cầu kỳ mà tâm đức với thiên nhiên đã đồng cảm, lòng thấy ngất ngây tận hưởng mà khi đã tích đức tu nhân tạm cho là đủ thì chẳng cần đất đẹp xấu làm gì. Những người đã đạt đạo lý ấy, tự thân nhận thức cái có với cái không hầu như nhào quyện. Đến đây, câu chuyện phong 
Phong  thủy tồn tại trên hai nghìn năm mà cực thịnh là các triều nhà Minh, nhà Thanh bên Tàu, vào khoảng năm 1369 đến đầu thế kỷ này.
Hai khái niệm mà nhiều người hoà trộn thành một, hoặc là vô tình hay hữu ý không phân biệt đó là phong thủy và thuật phong thủy. Phong thủy là địa thế, địa hình, là đất là nước quanh ta. Phong thủy là môi trường mà con người tồn tại trong đó. Thuật phong thủy là những luận lý, những suy nghĩ của con người và các thích ứng cuộc sống của con người khi nằm trong cái phong thủy ấy. Như thế phong thủy là tồn tại khách quan còn thuật phong thủy là sản phẩm của ý thức liên quan đến phong thủy.
 Phong thủy còn có ý nghĩa rộng là những hoạt động nghiên cứu về thiên văn, về sao trời, vũ trụ, về trái đất, về khí tượng, về địa thế làm nhà, đặt mồ mả. Nên vừa gần với con người lại vừa xa với con người, lý luận cơ bản của phong thủy (kinh dịch, âm dương ngũ hành) thì rất trừu tượng, thuật ngữ sử dụng thì khác lạ với ngôn từ hàng ngày tạo ra cho phong thủy một dạng vẻ bí hiểm. Đọc phong thủy và nghe về phong thủy thấy một không khí sống, chết đan xen, đất trời hoà nhập, rõ không ra rõ mờ không ra mờ làm cho quần chúng tin thì có thể tin, có thể không tin thì cũng sợ. Thấy phong thủy lại thêu dệt bao chuyện ly kỳ, gán một số quan niệm phong thủy vào các sự kiện lịch sử, tô vẽ cho phong thủy có bộ mặt thần bí.
Lý luận và thực tiễn của phong thủy vô cùng phức tạp. Để xem một thế đất đặt mả, phần lớn thầy địa lý phải ở gần gia chủ cả năm trời, sáng cơm rượu rồi đi ngắm nghiá đất trời rong ruổi ngoài đồng. Chiều về đọc sách (chẳng hiểu sách gì), khểnh duỗi tư duy để rồi nhập nhoạng tối lại thành kính và đợi chờ đất phát. Chờ mãi không thấy đất phát lại ngẫm nghĩ, tính suy hay là tại mình tâm chưa thành, lòng chưa kính hay thậm chí còn hối vì đãi thầy chưa hậu.
Ngay vài năm gần đây trong câu chuyện làm nhà ở ta, chắc không ít người cậy thầy phong thủy. Vào những năm 1991- 1993 nhà đất vào cơn thịnh vượng thì nhiều người làm nên ăn ra tưởng đâu như nhờ thầy mà phát. Nhưng sang năm 1995 – 1996 nhà vay tiền làm, những mong Tây thuê để thu hồi vốn nhưng biển treo “house for rent” cả thời gian dài dài chẳng có ai ngó hỏi. Nợ vẫn chất chồng, lãi mẹ đẻ lãi con, chắc cũng chẳng có ai đi trách thầy phong thủy. Thầy phong thủy nào chẳng nói như tép nhảy, lại đệm những từ như minh đườmg, huyền vũ, bạch hổ, thanh long, chủ nhà chỉ còn cách gật đầu lia lịa xuýt xoa khen thầy và tự hào mình đã được đặt ngang mình cùng thầy đạo cao đức trọng.
Nước Trung Hoa từ sau 1949 thuật phong thủy bị đả kích nặng nề, không dám công khai lộ diện nhưng nó lại được Hồng Kông, Đài Loan nâng đỡ. Nó cứ dai dẳng tồn tại có lúc rõ hình có lúc lu mờ, kín đáo. Vài năm gần đây, trong không khí cải cách chung về kinh tế ở Trung Quốc người ta lại nghiên cứu và bàn luận về phong thủy trên sách vở.
Điều khẳng định là nó tồn tại dai dẳng. Vậy cái lý để nó tồn tại là gì. Có người xếp phong thủy như một hiện tượng văn hoá, vì nó sống trong phần hồn của con người.
Trong phong thủy và thuật phong thủy có cái lý giải được theo khoa học là địa hình, địa thế làm nhà chịu ảnh hưởng của địa chất công trình, địa chất thủy văn, vi khí hậu. Xem thế đất làm nhà chính là chọn theo ngôi nhà theo các điều kiện thuận lợi về phương vị, khí hậu, địa chất công trình tốt, địa chất thủy văn phù hợp. Đây chính là khâu điều tra cơ bản để chọn địa điểm xây dựng. Từ môi trường vi khí hậu tốt mà chủ nhà có sức khoẻ tốt, tâm lý tốt, làm nên ăn ra. Đấy là những nhân tố tích cực.
Làm cho phong thủy thần bí, võ đoán những thế đất này thì đau mắt, thế đất kia con gái lại goá chồng ...là điều chưa hẳn dễ tin.
Đọc phong thủy, tìm hiểu phong thủy để tìm ra yếu tố để nó tồn tại như hiện tượng văn hoá, dùng nhãn quan khoa học để khen cái được, chê cái bịa đặt là điều cần làm. Đối chiếu những điều đã có trong phong thủy và thuật phong thủy, gạn đục khơi trong với phong thủy là điều có thể làm được.
 Phong thủy gắn liền với đất đai, với phương thức. Tri thức về phong thuỷ không thể tách rời với những khái niệm cơ bản về phương vị hiểu theo cách của người Tàu cổ.
 Để xác định phương vị khi đi khảo sát đất đai, nghề phong thuỷ dùng dụng cụ gọi là la bàn. La bàn lớn gọi là La kinh. La bàn nhỏ gọi là trốc long. Trên la bàn, la kinh hay trốc long vẽ nhiều vòng tròn và các vạch xuyên tâm chia phương vị.
 Đời Minh có Từ Chi Mạc soạn “La kinh đỉnh môn trâm” có hai quyển chỉ nam châm. Sách này cho rằng la kinh lúc đó có 24 hướng, bỏ quên 12 chi của tiên thiên, nên thêm 12 chi, chia làm 33 tầng, trình bày bằng chữ và vẽ hình. Ngoài ra sách còn một phụ lục do Chu Chi Tương vẽ.
 Thẩm Thăng đời Minh cũng soạn “La kinh đỉnh môn trâm” bàn về tiêu nạp khí trong 72 long mạch.
 Chính giữa la bàn gắn một kim nam châm có trụ quay. Phần dưới kim là các vòng trong đồng tâm và những tia đi qua trục kim nam châm ghi phương vị. Trong các vòng tròn (thường là ba vòng) thì vòng trong cùng là vòng địa bàn, vòng giữa là vòng nhân bàn và vòng ngoài cùng là vòng thiên bàn. La kinh có thể có tới 13 vòng.
 Nếu chỉ có ba vòng thì vòng thiên bàn dùng xem hướng nước tụ, nước chảy. Vòng địa bàn để ấn định long mạch. Vòng nhân bàn để luận sự tốt xấu của các gò đống (mà phong thuỷ gọi là các sa). Vòng tròn được chia thành 24 ô, mỗi ô ứng với 150
 Nếu lấy vòng tròn địa bàn làm gốc thì vòng thiên bàn lệch về phải nửa ô và vòng nhân bàn lệch về phía trái nửa ô.
 Tại tâm thường làm một vòng nhỏ, chia thành hình âm, dương. Nhận thức là Thái cực sinh lưỡng nghi. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng. Tứ tượng là Thái dương,Thái âm,Thiếu dương,Thiếu âm. Đó chính là bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc. Cách xác định phương vị trước thời Tần: Khi đi, trước mặt là Chu Tước, sau lưng là Huyền Vũ, còn bên tả là Thanh Long thì bên hữu là Bạch Hỗ. Điều này có nghĩa là, trước mặt là Nam thì sau lương là Bắc, bên trái là Đông thì bên phải là Tây.
 Chính Bắc ghi chữ Tý, chính Nam ghi chữ Ngọ, chính Đông ghi chữ Mão, chính Tây ghi chữ Dậu, kể theo chiều kim đồng hồ thì lần lượt 24 ô như sau: Mão, ất, Thìn, Tốn,Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp.
 Chuyện lưu truyền khi Quản Lộ (đời Tam Quốc) đi về phía Tây gặp mộ Vô Hưu Kiệm thì than thở, không vui mà nhận xét: Cây cối tuy nhiều mà từ lâu không có bóng, bia mộ lời ghi hoa mỹ nhưng không có hậu để giữ gìn, huyền vũ khuất mất đầu, thanh long không có chân, bạch hổ đang ngậm xác chết, chu tước đang rên rỉ, mối nguy đã phục khắp bốn bề, họa diệt tộc ắt là sắp đến, không quá hai năm đã ứng nghiệm.
 Quách Phác trong “Táng Kinh” dặn rằng: Thanh Long bên trái, Bạch Hổ bên phải, Chu Tước đằng trước, Huyền Vũ đằng sau, muốn được mồ yên mả đẹp Huyền Vũ phải cúi đầu, Chu Tước dang cánh Thanh Long uốn khúc, Bạch Hổ quy thuận. Khi nhìn thế đất đồng thời phải nhìn màu đất. Nếu ta thăm đàn tế xã tắc ở công viên Trung Sơn Bắc Kinh thì thấy phương đông Thanh Long , đất màu xanh cây cỏ, phương tây Bạch Hổ màu đất trắng bạc, phương nam Chu Tước đất đỏ màu hồng, phương bắc Huyền Vũ đất có màu đen. Giữa đàn cúng, đất màu vàng tượng trưng cho người.
 Tứ tượng sinh Bát quái, ngoài tứ tượng đã có lặp lại trong Bát quái còn thêm bốn hướng của bát quái là: Càn, Khôn,Cấn,Tốn. Đó chính là các hướng Tây Bắc, Tây Nam, Đông Nam, Đông Bắc.
 Như thế phương Đông có Giáp, Mão, ất, Đông Nam có Thìn,Tốn, Tỵ, Nam có Bính, Ngọ, Đinh, Tây Nam có Mùi, Khôn, Thân, Tây có Canh, Dậu, Tân, Tây Bắc có Tuất, Càn, Hợi, Bắc có Nhâm, Tý, Quý, Đông Bắc có Sửu, Cấn, Dần.
 Các hướng thuộc địa chi là: Tý, Sữu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi (12 hướng đia chỉ). Tám hướng thuộc thập can là: Giáp, ất, Bính, Đinh, Canh,Tân, Nhâm, Quý (bỏ Mậu, Kỷ trong thập can).
 Các hướng xếp đối xứng gọi là bát sơn đối diện gồm: Càn-Tốn, Khảm-Ly, Cấn-Khôn, Chấn- Đoài. Bắc thuộc Khảm, Đông thuộc Chấn, Nam thuộc Ly, Tây thuộc Đoài.
 Phân vị theo ngũ hành thì chính giữa là hành Thổ, Bắc thuộc Hành Thuỷ, Đông thuộc Hành Mộc, Nam thuộc Hành Hoả, Tây Hành Kinh. Còn cách gọi khác: Thuỷ là Nhuận hạ, Hoả là Viên thượng, Mộc là Khúc trực, Kim là Tòng cách, Thổ là Gia tường.
  Theo Hồng Vũ cấm thư luận về Ngũ hành tương ngộ thì thuỷ giao thuỷ nam nữ tất dâm. Phương Bắc thuộc Thuỷ. Nếu có nước thâm nhập từ phương Bắc vào khu đất ta ở hay mộ phần thì con cái không ổn thoả. Nếu dựng nhà quay măt hướng Nam thì sau nhà là huyền vũ. Huyền vũ phải là thế đất nhô cao, có gò thoải mới thuận mới đẹp. Gò thoải là thế huyền vũ cúi đầu. Nếu sau nhà là đầm nước hoặc vách núi dựng thì có khác gì huyền vũ mất đầu mà Quản Lộ chê bai ở trên.
 Phương Nam là Hoả mà thế đất lại nhọn khác nào như lửa gặp lửa,theo phong thuỷ thì ở đất ấy hay gặp điều kiện tụng. Phương Tây của miếng đất đới Tượng xem xét là Kim mà thế tròn (Kim) thì gia chủ sẻ giàu có, thịnh vượng. Phía đông nhà là hướng Mộc lại có thế đất dài là Mộc thì Môc Mộc tương sinh, trai gái trong nhà giàu sang phú quý.
 Ngoài ra quan hệ giữa Thiên, Địa, Nhân còn có quy ước:Tý là Nhân huyệt, Cấn là Quỷ môn, Tốn là Địa hộ, Bính là Địa huyệt, Khôn là Nhân môn, Canh là Thiên huyệt, Càn là thiên Môn.
 Trong quá trình xem xét phương vị thì Tiên thiên Bát quái của Phục Hy để phối hợp Âm Dương. Hữu Thiên bát quái của Văn Vương để xếp các Hào Tượng.
 Ra đến địa hình cụ thể thì khu đất có thế bằng phẳng là Dương thì gò đống nổi cao lại là Âm. Đât Sơn Cước cương dũng nên chọn làm nhà, đặt mộ ở nơi có mạch nhỏ (long gầy). Đất bình dương bằng phẳng nên chọn vị trí cao để toạ lạc (khởi đột). Khu đất đẹp bên trái có thanh long (mạch nước). Bên phải có bạch hổ (dường dài), thế đất đằng trước có ao đầm toả rộng (chu tước), đằng sau có gò tròn tựa lưng(huyền vũ). Long là Dương, Hổ là Âm. Long Hổ tương nhượng thì gia đinh hoà thuận, trai gái sum vầy.
 Núi chủ tĩnh (đứng yên) là Âm thì nước chảy (chủ động) là Dương. Thế đất đẹp là đất có chủ tĩnh quay đầu như động. Nước chủ động lững lờ là lỡ rộng như chảy, như không, lưu luýên dùng dằng. Núi và nước hiền hoà bên nhau, cặp kè với nhau, bảo vệ nhau, nuôi dưỡng nhau là thế đất đẹp. Kiểu luận lý như thế là dựa vào cơ sở trong Dương có Âm, trong Âm có Dương. Điều hoà Âm Dương là điều quan trọng. Luận Âm Dương rồi Toán ngũ Hành sao cho mọi suy tính không trùng điều xấu.
 Chọn các thế đất, cách chọn hướng, suy cho cùng sau khi loại bỏ nhũng điều thần bí và mê tín thì cũng chọn địa điểm hợp với điều kiện địa hình, địa chất công trình, địa chất thuỷ văn, vi khí hậu cho môi trường sống được thoả đáng.
 Thuật phong thuỷ nghiên cứu những vận động tự nhiên của môi trường sống của con người để mưu cầu sự tiện nghi trong cuộc sống gắn liền với thiên nhiên. Gặp hướng nghịch thì dùng giải pháp che nắng, chắn gió. Nóng bức quá thì dùng điều hoà nhiệt độ.
 Phong thuỷ ghi lại dấu của một hiện tượng văn hoá xưa. Đời nay biết mà xem người xưa mưu cầu tiện nghi cuộc sống ra sao.Thực ra thì người xưa chế tác ra thuật phong thuỷ cũng chỉ là cách tìm hiểu thiên nhiên và sự vận động của thiên nhiên rồi hạn chế tác động tiêu cực của thiên nhiên để chung sống vói môi trường sao có lợi cho con người. Nếu loại bỏ những điều mê tín là sự lợi dụng phong thuỷ loè bịp thiên hạ để kiếm cơm thì phong thuỷ đâu có chỉ là dị đoan.
 Phương vị theo ngủ hành thì chinh giữa là hành Thổ, Bắc thuộc hànhThuỷ, Đông thuộc hành Mộc, Nam hành Hoả, Tây hành Kim. Còn cách gọi khác: Thuỷ là nhuận hạ, Hoả là Viên thượng, Mộc la Khúc trực, Kim la Tòng cách, Thổ la Gia tường. Đó là Chính- Ngũ- Hành.                               
  Như hình này thì Thổ không ở các phương mà nằm ngay chính giữa. Thuật phong thuỷ chú ý đến toạ sơn, hướng thượng, thực tế ngũ hành chỉ sử dụng tứ hành cho nên còn có tên của ngũ hành là tứ kinh ngũ hành.
 Dần, Ngọ, Tuất hợp thành nhóm Hoả. Tỵ, Dậu, Sửu hợp thành nhóm Kim. Thân,Tý, Thìn hợp thành nhóm Thuỷ. Tân, Mão, Mùi hợp thành nhóm Mộc. Mỗi nhóm có ba phương: sinh, vượng, mộ hợp thành nên gọi là tam hợp ngũ hành.
 Bát quái ngũ hành phân biệt khác với chính ngũ hành và các loại ngũ hành khác. Bát quái ngũ hành chủ trương lấy hình thể ghép thành cụm mà luận ngũ hành. Bát quái là Càn, Khôn, Chấn, Cấn, Ly, Khảm, Đoài, Tốn.
 Theo đồ tiên thiên bát quái thì Càn ở Nam, Khôn ở Bắc, Ly ở Đông, Khảm ở Tây, Đoài ở Đông Nam, Chấn ở Đông Bắc, Tốn ở Tây Nam và Cấn ở Tây Bắc. Đến hậu thiên Bát quái thị địa vị của tám quẻ hoàn toàn thay đổi.
 Sự thay đổi này do luận lý Âm Dương giao hợp nên.
 Càn là Dương thuần, hút khí âm của Khôn biến thành Tốn. Càn biến hoá lần hai thành Ly, biến hoá lần ba thành Đoài. Khôn là Âm thuần đoạt dương khí của Càn biến lần đầu thành Chấn, lần hai thành Khảm, lần ba thành Cấn. Luận vào ngũ hành thì Chấn thuộc Mộc, Canh ghép với Chấn, Hợi Mùi phối hợp với Chấn do đó Canh, Hợi, Mùi đều thuộc Mộc. Tốn thuộc Mộc, Tân ghép với Tốn do đó Tân cũng thuộc Mộc. Càn thuộc Kim, Giáp ghép với Càn nên Giáp cũng thuộc Kim. Đoài thuộc Kim. Đinh ghép với Đoài, Tỵ, Sửu phối hợp với Đoài nên Đinh Tỵ, Sửu đều thuộc Kim. Khảm thuộc Thuỷ, Khảm phối hợp với Quý, Quý thuộc Thủy, Thân, Thìn phối hợp với Khảm nên cũng thuộc Thuỷ. Ly thuộc Hoả. Càn phối hợp với Nhâm thuộc Hoả Dần, Tuất hợp với Ly nên cũng thuộc Hoả. Khôn thuộc Thổ. ất ghép với Khôn nên cũng thuộc Thổ. Bính ghép với Cấn nên Bính cũng thuộc Thổ.
 Tượng trưng của bát quái thì Càn là Trời, Khôn là Đất, Cấn là Núi, Khảm là Nước, Đoài là Đầm nước, Ly là lửa, Chấn là Sấm và Tốn là Gió.
 Bát quái chủ yếu dùng minh định phương vị. Chu Dịch chỉ rõ: Vạn vật ra đời từ Chấn, Chấn là phương Đông, bình tại Tốn, Tốn là Đông Nam, Ly là sáng sủa, vạn vật gặp nhau nên Ly là phương Nam. Thánh nhân quay mặt về phương Nam để xét việc thiên hạ. Khôn là Đất nuôi vạn vật. Đoài là giữa mùa Thu, là sở thuyết của vạn vật. Càn chỉ phương Tây Bắc, nơi âm dương sát kề nhau. Khảm là nước, là phương chính Bắc, là nơi quy tụ của vạn vật. Cấn chỉ Đông Bắc, là nơi kết thúc cũng là nơi mở đấu của mọi việc.
 Hồng phạm ngũ hành phân biệt khác trên như sau:
                Giáp Dần Thìn Tốn Mởu Khảm Tân Thân thuộc Thuỷ
                Chấn Cấn Tỵ thuộc Mộc
                Ly Nhâm Bính ất thuộc Hỏa
                Đoài Đinh Càn Hoại thuộc Kim
                Sửu Quý Khôn Canh Mùi thuộc Thổ
 Trên đây là loại ngũ hành thông dụng. Ngoài ra còn nhiều loại ngũ hành khác như Tứ sinh ngũ hành, Song sơn ngũ hành, Huyền không ngũ hành, Hướng thượng ngũ hành, Nạp Âm ngũ hành, Địa chi ngũ hành….nhiều vô kể.
 Cụ thể của phong thuỷ thì thế đất tròn là Kim, thế dài là Mộc, thế nhọn là Hoả, thế vuông là Thổ, thế như sóng gợn là Thuỷ.     
 Khi chọn đất phải dựa vào ngũ hành tương sinh mà luận đoán. Tránh ngũ hành tương khắc là điều thầy phong thuỷ tâm niệm hàng ngày.
 Tuy thế sự vận dụng ngũ hành trong phong thuỷ rất lung tung. Thầy phong thuỷ cho rằng ngũ hành là cương lĩnh của Âm Dương, là quyền của tạo hoá cho nên mọi việc trong nghề phong thuỷ đều phải dựa vào ngũ hành.
 Mọi phương án lập thành đều do lý luận dựa vào ngũ hành mà phán đoán. Hiện nay ta có thể coi rằng nhiều luận đoán là võ đoán. Tuy thế, có một số luận đoán là khả tín.
 Luận đoán kiểu ngũ hành tương ngộ, đại loại xem sự sinh – khắc ra sao, xem khi phối hợp sẽ dẫn đến kết quả thế nào. Xin dẫn ra đây để minh chứng những điều luận đoán của thầy phong thuỷ, để chúng ta thấy một luận lý , không phải đây là một cáh luận lý chung nhất và điều đúng sai còn phải bàn.
 Khi thuỷ gặp thuỷ thường dẫn đến điều không tốt, gia đình dâm loạn. Phương Bắc là thuỷ mà có nước ngấm vào nhà, vào mồ thì không tốt. Phương Nam là hoả mà có thế đất hình tam giác nhọn, như thế hoả gặp hoả thầy phong thuỷ đoán rằng ở nơi đất ấy thường sinh kiện tụng. Phương Tây thuộc Kim mà có thế đất dáng tròn (kim hình) thì nhà như thế của cải ùn ùn kéo đến. Phương Đông thuộc Mộc mà thế đất lại có hình dài (Mộc hình) gia chủ sẽ có con cái đuề huề, giàu sang phú quý.
 Đối với mảnh đất làm nhà hay nơi huyệt táng, nếu lấy vị trí ngôi nhà hay ngôi mộ làm mốc phương vị thì phong thuỷ gọi bên trái là Thanh long, bên phải là Bạch hổ, đằng trước là chu tước, miếng đất ngay sát nhà là Minh đường, đằng sau là Huyền vũ.
 Tốt nhất thì bên trái có dòng nước nhỏ chảy lững lờ cho đúng nghĩa Thanh long(con rồng xanh). Bên trái có nước chảy theo dòng, cha và con trai vinh hiển mát mặt với đời. Bên phải có Bạch hổ (hổ trắng) lại có đường dài men theo rìa đất thì con gái trong nhà đảm đang sung sướng. Bạch Hổ mà lại có đình chùa miếu mạo hoặc vũng úng ngập là điều kiêng kị. Đất ở như thế dễ sinh tử biệt trong nhà. Trước nhà có ao hồ ôm đảo nhỏ hình tròn thì con gái trong nhà vẻ vang phú quý. Chu tước có sông dài bao bọc làm thành án thư như hình cái bàn kê trước nhà, trước mộ thì con cái trong nhà gaìu sang hiển vinh. Thế đất này gọi là Thiên cát (có lầu gác nhà trời). Sau nhà thế đất đùn tròn như mây đùn,xúm xít sum vầy gọi là huyền vũ có thế bích dài (đài biếc), lộc không được để hố sâu. Truyền thuyết kể rằng sau mộ Tổ Khuất Nguyên bên Tàu có hố sâu nên ông này chết uổng.
 Núi non, sông nước, thiên nhiên, gò đống long mách sắp xếp trên mặt đất đã tạo cho hoạ phúc cho người lưu tới. Thầy phong thuỷ cho rằng mình có nhiệm vụ tìm ra chỗ ở, chỗ táng cho người ở, con cháu người táng được điều lành, được phúc ấm. Muốn có thế đất như ý phải học qua lý khí và thấu tìm. Điều hết sức quan trọng trong phong thuỷ bản thân người thầy phải tu nhân tích đức. Tiên tích đức, hậu tầm long: Cái gốc của tìm đất là thầy phải ăn ở, suy nghĩ cho có nhân bản, có đạo lý làm người. Đã gọi là tích đức thì không phải ngày một ngày hai mà có ngay đựoc. Chỉ hăm hở tìm đất thì sẽ bị trời che mất mắt, lòng dạ tối tăm, đất đẹp trước mắt mà như mù, không thấy được. Đức sáng thì có khi thế đất hay, chẳng cần luận lý cầu kỳ mà tâm đức với thiên nhiên đã đồng cảm, lòng thấy ngất ngây tận hưởng mà khi đã tích đức tu nhân tạm cho là đủ thì chẳng cần đất đẹp xấu làm gì. Những người đã đạt đạo lý ấy, tự thân nhận thức cái có với cái không hầu như nhào quyện. Đến đây, câu chuyện phong thuỷ dẫn thành triết lý cuộc sống, không còn đơn thuần là phép địa lý thực hành nữa. Tiếp tục bàn không phải là đối tượng của bài viết này.


Theo Liên hiệp khoa học UIA

No comments:

Post a Comment