Các tầng của La bàn
La bàn cho chúng ta biết hướng của trời đất, cũng như hướng của nhà ta vậy, ngoài việc đó ra, la bàn còn giúp cho chúng ta trong việc ứng dụng phong thuỷ vào thực tiễn.
Lý luận phong thủy cho rằng, mục tiêu chủ yếu chọn phương vị trạch là tìm khí và cân bằng âm dương, việc giám định phương vị phải tổng hợp năm sinh của người, lấy sinh, khắc, chế, hóa của âm dương ngũ hành và lấy biến của quẻ hào mà được mất cát hung. Nhiều nội dung ấy được phản ánh trên la bàn nhưng cũng có bộ phận không thể dung nạp trên la bàn được.
Đúng vậy, la bàn tập trung nhị khí âm dương, lý của bát quái ngũ hành, số của hà đồ lạc thư, đại thành về hình của thiên tinh quái tượng, nhưng phương pháp rất nhiều, chỉ nói riêng về ngũ hành đã có lão ngũ hành (còn có tên là chính ngũ hành) song sơn ngũ hành, tiểu huyền không ngũ hành, hồng phạm ngũ hành, tú sung ngũ hành, thực ra chỉ là sự sắp xếp khác nhau của 5 loại yếu tố Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Còn bát quái lại có tiên thiên bát qiaus và hậu thiên bát quái.
Quan sát phương vị của sơn thủy cũng quan trọng như khảo sát hình thái của nó. Người ta có thể hoài nghi rằng từ phương vị, địa hình mà theo phép đo phong thủy có thể tìm ra đất phong thủy phú quý, cát lành hay không. Một vị sư tăng phong thủy ở Hán thành nói: Sơn thủy có hình thể đẹp thường đứng ở phương cát, vì rằng vật tụ theo loại là phép tắc phổ biến trong vũ trụ. Có thể hiểu cách giải thích này là nếu hình núi muốn sinh ra cát địa nó phải ở cát phương. Nói theo kinh nghiệm của ông, núi có hình thể không đẹp thông thường ở phương vị không cát lợi.
Tầm quan trọng của phương vị phong thủy được khái quát trong một câu phong thủy mà ai cũng biết: cát sơn từ cát vị, cát thủy hướng hung phương. Cát vị và hung phương chỉ có dùng la bàn mới trắc nghiệm được. Vì vậy cần phải thảo luận về tính chất và tác dụng của la bàn phong thủy.
La bàn phong thủy có nhiều loại, loại đơn giản chỉ có mấy vòng, loại kết cấu phức tạp có nhiều vòng. Số mục tầng vòng không bằng nhau chứng tỏ cách dùng mỗi vòng khác nhau, và chỉ có một vòng quan trọng nào đó ứng với một điểm quan trọng nào đó. Sự sai lệch này còn chứng tỏ thấy phong thủy dân gian muốn xác định trạch địa âm dương không cần phải định hướng tỉ mỉ.
Loại hình la bàn cũng quá nhiều, có loại chỉ 2-3 vòng, có loại nhiều tới 49 vòng. Nhưng nói chung, la bàn có thể phân thành hai dạng lớn: Một dạng vòng duyên hải và một dạng vòng nội địa. Dạng duyên hải láy Chương châu Phúc Kiến, Hưng Ninh Quảng Đông làm đại biểu, dạng nội địa lấy Tô Châu của Giang Tô, Hưu Ninh của An Huy làm đại biểu.
Tầng số 1 - Thiên trì
Trong thiên trì đặt Kim chỉ nam. Do việc lắp đặt Kim chỉ nam không giống nhau nên chia làm la bàn nước và la bàn khô. La bàn nước là một thanh từ đặt vào trong bụng một con cá gỗ, con cá gỗ này nổi trên nước chứa ở bàn, tự nhiên chuyển động chỉ về hướng Nam, bàn nước ấy được gọi là “Thiên trì”. Đó là Kim la bàn truyền thống của Trung Quốc. Lý luận phong thủy cho rằng Kim chỉ nam định Tý Ngọ, trong thiên trì chứa Kim và Thủy, động là dương, tĩnh là âm, như vậy “lưỡng nghi phán, tứ tượng phân, bát quái định” thì tìm ra bí ẩn của thiên địa, trên tìm ra sự sắp xếp của trăng sao, dưới quan sát được thời lưu của sơn thủy (theo La Kinh giải định của Hồ Quốc Trinh).
Tầng số 2 - Tiên thiên bát quái
Tầng này chỉ có 8 quái. Căn cứ thứ tự sắp xếp khác nhau mà phân thành tiên thiên và hậu thiên. Theo truyền thuyết, Tiên thiên là Phục Hi sáng tạo ra, Hậu thiên là Chu Văn Vương làm ra. Bát quái dùng để chỉ vị trí của 8 phương, mỗi phương vị cách nhau 45°. Phương vị bát quái của Tiên thiên là: Càn Nam, Khôn Bắc, Li Đông, Khảm Tây, Chấn Đông Bắc, Đoài Đông Nam, Chấn Tây Nam, Cấn Tây Bắc.
Tầng số 3 - Hậu thiên bát quái
Phương vị của Hậu thiên bát quái là: Li Nam, Khảm Bắc, Chấn Đông, Đoài Tây, Tốn Đông Nam, Cấn Đông Bắc, Khôn Tây Nam, Càn Tây Bắc.
Tầng số 4 - 12 vị địa chi
Tầng này dùng 12 vị địa chi, Tý Sửu Dần Mão, Thìn Tỵ Ngọ Mùi, Thân Dậu Tuất Hợi biểu thị 12 phương vị, mỗi phương vị cách nhau 30°, Ngọ chỉ nam, Tý chỉ Bắc, Mão chỉ Đông, Dậu chỉ Tây.
Tầng số 5 - Tọa gia cửu tinh
Tọa gia là ý nói phương hướng, phương vị. Cửu tinh chỉ Tham lang, Cự môn, Lộc tồn, Văn khúc, Liêm trinh, Vũ khúc, Phá quân, Tả phù, Hữu bâth, 7 thất tinh trước chỉ Bắc đẩu tinh. Hai tinh sau chỉ hai tinh ở bên nhìn không thấy khi di động, nhưng kho mắt thường nhìn thấy nó thì rất dễ phân biệt. Lý luận phong thủy cho rằng, thanh khí bốc lên mà thành tinh, trọc khí chìm xuống mà thành sơn xuyên, cho nên trên trời thành tượng, ở đất thành hình, dưới dọi lên 24 sơn. Tinh có xấu đẹp nên đất có cát hung. 9 tinh trên trời di động cảm ứng với địa phương nào thuộc về nó, gọi là nhị thập tứ sơn tức tứ duy, bát can, thập nhị chi là 24 phương vị. Cửu tinh phối hợp ngũ hành, trật tự của nhị thập tứ vị là: Cấn bính tham lang mộc, Tốn cân cự môn Thổ, Càn Giáp Lộc Tốn Thổ, Li Nhâm Dần Tuất văn khúc thủy, Chấn Canh Hợi Mùi liêm trinh Hỏa, Đoài Đinh Tỵ Sửu Vũ khúc Kim, Khảm Quý Thìn Phá quân Kim, Khốn Ất Phù bật Thổ Mộc.
Tầng số 6 - Tên nhị thập tinh
Tầng này là 24 thiên tinh phối hợp với 24 vị, giải thích quan niệm “thiên tinh hạ ứng”. Tổ hợp của 24 tinh và phương vị là: Thiên hoàng Hợi, Thiên phù Nhâm, Thiên điệp Tý, Âm quang Quý, Thiên trù Sửu, Thiên thị Cấn, Thiên lư Dần, Âm cơ Giáp, Thiên mệnh Mão, Thiên quan Ất, Thiên chính Thìn, Thái Ất Tốn, Thiên bình Tỵ, Thái vi Bính, Dương quyền Ngọ, Nam cực Đinh, Thiên hán Canh, Thiếu vi Dậu, Thiên Ất Tân, Thiên khôi Tuất, Thiên khái Càn, Thiên hoàng Tinh tại Hợi, Thượng ánh tử vi viên, tây ứng thiếu vi viên, bốn viên này là bậc tôn quý trong thiên tinh được gọi chung là “Thiên tinh tứ quý” Cấn, Bính, Dậu hợp “Tam cát”. Thái Ất ánh Tốn, Thiên Ất ánh Tân, Nam cực ánh Định, Tốn, Tân, Đinh hợp Cấn, Bính, Dậu gọi là “Lục Tú”. Thiên bình ánh Tỵ, là đối cung của Tử vi viên, gọi là Đế tọa minh đường. Tỵ, Hợi hợp “lục tú” lại gọi là “Bát quý”. Trong Tam cát, tứ quý, lục tú, bát quý, dương trạch đại vượng, nhân đinh phú quý trải xa, phát phúcl lâu dài.
Tầng số 7 - Kim chính của địa bàn
Trong la bàn có 3 kim 3 bàn tức địa bàn chính châm, thiên bàn phùng châm, nhân bàn trung châm, 3 bàn đều phân ra 24 cách, mỗi cách đều chiếm 15°, gọi là “nhị thập tứ sơn”. 24 phương vị là tên gọi hợp thành của 12 chi (Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi) bát can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Thân, Nhâm, Quý) tứ duy (Càn quái, Cấn quái, Tốn quái, Khôn quái) Kim từ chỉ đúng chính ngọ gọi là chính châm, ở Nhâm Tý gặp Bính Ngọ gọi là Phùng châm, ở Tý Quý giữa Ngọ Đinh gọi là Trung châm.
Tầng số 8 - Tiết khí 4 mùa.
Tầng này thể hiện 24 tiết khí trong 1 năm tức Lập xuân, Vũ thủy, Kinh trập, Xuân phân, Thanh minh, Cốc vũ, Lập hạ, Tiểu mãn, Mang chủng, Hạ chí, Tiểu thử, Đại thử, Lập thu, Xử thử, Bạch lộ, Thu phân, Sương giáng, Lập Đông, Tiểu tuyết, Đại tuyết, Đại tuyết, Đông chí, Tiểu hàn, Đại hàn. Lý luận phong thủy cho rằng dưới 24 sơn phân bố thành 24 tiết khí, Lập xuân bắt đầu từ Cấn, Đại hàn bắt đầu từ Sửu, mỗi khí phân thành 3 hậu thượng, trung, hạ cộng là 72 hậu, để nói rõ lý lẽ tiêu trưởng của âm dương, con số tiến thoái thuận nghịch, vạch rõ ngũ vận lục khí.
Tầng số 9 - Xuyên sơn thất thập nhị long
Tầng này dùng 60 Giáp Tý cộng thêm bát can tứ duy mà hợp thành 72 long, khởi Giáp Tý ở Nhâm Mùi của chính châm, 72 vị phân phối ở dưới 24 sơn, một sơn thống suất 3 long để ứng với 72 hậu của năm tháng. Thầy phong thủy thường dùng cách long của tầng này với 60 long thấu địa coi là biểu lý, chuyên luận sơn cương lai mạch, mà định cát hung.
Tầng số 10 - Ngũ gia ngũ hành
Ngũ gia ngũ hành là chính ngũ hành, song sơn ngũ hành, bát quái ngũ hành, huyền không ngũ hành, hồng phạm ngũ hành. Thầy phong thủy căn cứ phương pháp tương sinh tương khắc của ngũ hành, phối hợp năm phương vị đối ứng với ngũ hành và tiết khí bốn mùa để luận âm dương tiêu tưởng, phán đoán tình hình long sa thủy huyệt, từ đó mà xác định cát hung của trạch. Thường dùng Bát quái, huyền không ngũ hành lập hướng, tiêu nạp sa thủy, hồng phạm ngũ hành dùng tọa sơn để khởi tuần mộ vận, chính ngũ hành, song sơn ngũ hành và hồng phạm ngũ hành, cả ba phối hợp lại dùng để hành long định huyệt.
Ngũ hành tương sinh: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.
Ngũ hành thương khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim
No comments:
Post a Comment