Sunday, December 6, 2015

HÃY VÌ SỰ THẬT LỊCH SỬ!

Cách đây không lâu, khi nói tới sự nghiệp của Chí sĩ Phan Chu Trinh, một tác giả trong nước khẳng định: “ông là người duy nhất đi tìm và đã tìm thấy nguyên nhân mất nước, dân tộc bị đày đọa vào vòng nô lệ thảm khốc, không phải trong sự thiếu anh hùng của nhân dân, mà là cả trong văn hóa, trong sự lạc hậu nguy hiểm về vấn hóa của đất nước, so với thế giới”. Nhưng sự thật lịch sử có đúng như vậy không? Các học giả trong nước và quốc tế đã có nhiều công trình nghiên cứu, đánh giá công phu về thân thế, sự nghiệp của cụ Phan ở Quảng Nam. Phan Chu Trinh là người tha thiết yêu nước và trong suốt 20 năm đã tích cực hoạt động vì nước. Tuy nhiên, sách lược cứu nước của cụ có những hạn chế, sai lầm. Nhưng có một số người đang ngụy biện về sự nghiệp Phan Chu Trinh, cố biến sai thành đúng để phủ nhận giá trị của toàn bộ cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc Việt Nam, với ý đồ chính trị cực kỳ nguy hiểm. 


Bài viết xuyên tạc lịch sử trên BBC, Anh Ba sàm
Về giá trị sách lược cứu nước của Phan Chu Trinh, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhận định đó là: “Sai lầm chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương” (Trần Dân Tiên - Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB Sự thật, H. 1975, tr.12). Quả thực, đó là một con người hết sức viển vông. “Ỷ Pháp tự cường”! Ai lại đi nghĩ cái thằng giặc đang cướp của nước, lột sức dân mình sướng muốn chết, thằng ấy nó sẽ tự nó làm, hay ngay cả để cho người mình làm, cái việc cải cách xã hội Việt Nam nhằm khiến ta trở nên mạnh. Ta mạnh, để không cho nó cướp lột ta nữa à! Việc cải cách có làm là phải làm hồi thời Tự Đức, khi nước chưa mất, khi còn làm được. Chủ trương của Phan Chu Trinh đem ra thực hiện chỉ hai năm thì có kết quả hoàn toàn minh bạch: Pháp dẹp tan phong trào Duy Tân và suýt nữa thì đưa người khởi xướng phong trào ra pháp trường. Lạ lùng, đại bại trên không làm cho Phan Châu Trinh tỉnh ngộ mà thôi “đến xin giặc”. Suốt đời cụ không từ bỏ mơ tưởng xây dựng một xã hội Việt Nam theo ý mình, với sự hợp tác của Pháp...”. Khi Phan Chu Trinh mất, trong lời khóc của một bạn thân là Huỳnh Thúc Kháng có đoạn tóm tắt chính kiến của người vừa quá cố: “Chủ nghĩa tiên sinh đệ nhất là đánh đổ chuyên chế, làm cho dân quyền tự do. Chuyên chế bấy giờ là bù nhìn của thực dân. Đánh thực dận, chứ đánh làm chi chuyên chế?”, đòn dân quyền, hay dân chủ, thì trong thư của một bạn thân khác của Phan Chu Trinh là Phan Bội Châu, giữa những câu rào trước đón sau là lời nhận định sáng suốt: “ôi dân chủ! Dân Không còn nữa thì chủ vào đâu... Lý luận không đi sát thực tế, thi hành thi chỉ là một việc tai hại”.

Có nước, mới có dân. Nước mất rồi chỉ có nô lệ thôi. Là nô lệ thì “chủ vào đâu”! Nô lệ mà đánh đổ chuyên chế, dựng lên chánh quyền “dân chủ”, thì chính quyền đó cũng chỉ là bù nhìn và thân nô lệ cũng vẫn chỉ y nguyên thân nô lệ. Phải tập trung giải phóng dân tộc trước đã, dựng gì đấy thì dựng sau; mọi cải cách sớm chỉ nên tiến hành nếu có lợi cho kháng chiến, như sau này Đảng Cộng sản tiến hành cải cách ruộng đất để động viên nông dân dốc sức tiếp tục đánh thực dân Pháp. Còn tại sao “tai hại”? Bởi Phan Chu Trinh đã đặt một lý thuyết chính trị lên trên độc lập của Tổ quốc, làm cho một số người Việt Nam hoang mang, không tập trung được vào công cuộc giành độc lập. “Không đi sát thực tế” là nói hết sức nhẹ nhàng. Nói cho chính xác, Phan Chu Trinh đã phiêu diêu trên những cõi lý luận mà xa lìa hẳn thực tế phũ phàng của quê hương Việt Nam khi đó...

Về cuối đời, cụ cổ vũ giáo dục trẻ em Việt Nam bằng tiếng Pháp! Cái sai này khiến ngay một trí thức hợp tác chặt chẽ với Pháp là Phạm Quỳnh cũng phải gay gắt phê phán: “Thái độ bất ngờ của nhà ái quốc Phan Chu Trinh hoàn toàn ủng hộ tiếng Pháp và hy sinh hẳn tiếng Việt Nam, phản đối sự dạy bằng quốc ngữ ở các trường tiểu học... Đối với một việc dễ dàng như việc này mà còn có người ngộ nhận như thế... nghĩ cũng tiếc và cũng ngán thay! Việc dễ, việc nhỏ còn thế, việc lớn, việc khó thời thế nào?”.

Đây là tâm sự của đông đảo học sinh Việt Nam độ mười năm sau khi Phan Chu Trinh qua đời: “Trong chương trình của ban học thành chung, mỗi tuần chỉ có một giờ dạy tiếng Việt... Chúng tôi yêu quốc văn với tấm lòng người con thương mẹ, yêu thương người mẹ đẻ bị rẻ rúng, bị xem thường. Lòng yêu quốc văn của chúng tôi lúc đó là một biểu hiện của lòng yêu nước”. (Huy Cận, Hồi ký song đôi tập 21NXB Hội Nhà ván, H.2003). Về sự đẹp đẽ, sang giàu của tiếng Việt, Nguyễn Tuân từng viết: “Có những lúc tôi... lặng cúi xuống mặt trang giấy trắng tinh... mà nói bật lên những lời biết ơn đối với đất nước, ông bà, tiên tổ đã truyền cho tôi thứ tiếng nói đậm đà... Trong hương hoa thừa hưởng đấy, lẫn vào với vô số thanh âm từ điệu, thấy như biểu hiện lên không biết bao nhiêu là mồ hôi và máu huyết của đời sống ông bà khai rừng, vờ ruộng, mở cõi, giữ nước chống giặc, tiến lên tới đâu là xây dựng ngôn ngữ tới đó. Nay mỗi lần đụng tới di sản nhiệm màu ấy, thấy bổi hổi bồi hồi, như vấn vương với một cái gì thật là thiêng liêng, vô giá... Không, không thể nào quên được cái tiếng Việt Nam hữu cơ, cái tiếng Việt Nam linh diệu ấy được”. (Nguyễn Tuân, về tiếng ta, đăng trên tạp chí Văn học số 3-1966, in lại trong Các nhà văn nói về văn, NXB Tác phẩm mói, Tập II H.M85).

Tố Hữu có câu thơ: “Phan Chu Trinh lạc lối trời Âu”. Lòng cụ Phan không bao giờ lạc ra khỏi con đường yêu nước, nhưng trí óc của cụ thì có bị cái “trời Âu” lung lạc. Trong khi bồn ba rất lâu năm ở Tây phương, mà Nguyễn Ái Quốc trước sau cả lòng lẫn óc không hề “lạc”. Ngay sau khi lên làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh quyết định lập tức đánh “giặc dốt”, cấp tốc dạy cho toàn dân biết đọc biết viết tiếng Việt. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh có lần phát biểu: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tắt cả lũ cướp nước và lũ bán nước!”.

Do đó dân tộc Việt Nam đặc biệt quý những người yêu nước.

Chỉ nói riêng thời Pháp thuộc cho đến năm Phan Chu Trinh qua đời, bao nhiêu tên tuổi đã đi vào lòng dân, được mãi mãi ghi nhớ. Đám tang cụ Phan to hơn đám tang những nhà ái quốc khác không phải vì người Việt Nam quý cụ hơn những người kia, mà chủ yếu vì ba lý do này: Thứ nhất, Phan Bội Châu mới bị giặc Pháp bắt. Danh sĩ thiết tha với nước và còn đang hoạt động giờ còn hết sức ít nên dân có ỷ trông mong nơi Phan Chu Trinh, nào ngờ hồi hương chưa được bao lâu cụ đã mất, khiến lòng dân thê thảm, trong cái khóc một người có chen bao nhiêu nước mắt rơi cho vận nước. Thứ hai, nhiều người Việt Nam muốn nhân cơ hội bày tỏ nhiệt tinh ái quốc. Tức cái đám này vừa là một đám khóc vừa là một cuộc biểu tình có trật tự để phản đối thực dân. Thứ ba, đám tang cụ Phan Chu Trinh to là vì đã có điều kiện để tổ chúc to. Có phải dân ta không muốn đi đám tang Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám hay Nguyên Thái Học đâu, chẳng qua có đám đâu mà đi!... Thời Pháp thuộc, bao nhiêu Nho sĩ chống giặc Pháp đều là vì ái quốc chứ đâu phải vì trung quân (cho nên các cụ mới nghe lời ông vua yêu nước mà không đếm xỉa đến cái bù nhìn làm nhục nước!). Nho giáo Việt Nam khác với Nho giáo Trung Quốc trước tiên chính là ở cái chỗ đặt nước trên vua, mọi người đều biết cả đấy cơ mà...

Nghĩ về Phan Chu Trinh, làm sao khỏi nhớ lời trăng trối của nhà ái quốc tiền bối Lương Văn Can: “Bảo quốc túy, tuyết quốc sĩ”. Giữ hồn nước, rửa nhục nước, hai việc nước cán bản nhất... Phan Chu Trinh đã lấy làm quá quan trọng dân chủ, cái triết lý chính trị còn non trẻ của một bộ phận của nhân loại. Triết lý ấy kể cũng có chỗ hay, nhưng đáng lẽ ra cụ chỉ nên để bụng để sau này nếu có dịp thì cô đúc cái hay vào chính thể riêng của nước Việt Nam độc lập.

Bây giờ mới nói tới cái thiểu số đang công kênh Phan Chu Trinh với ý đồ “thay đổi chế độ”. Thời cụ Phan, ở Tây phương, dân chủ còn chừng mực, nhưng từ khá lâu dân chủ phương Tây đã trở nên quá độ, dẫn tới những kết quả cực xấu: Văn hóa tinh thần tụt dốc thê thảm, quan hệ giữa người với người sa sút vô phương cứu chửa... Dân chủ vô hạn làm cho ở Tây phương con người lành mạnh đang giãy chết. Thế mà lại có những người Việt Nam hăm hở đòi rước cho bằng được thứ “dân chủ” ấy về! Họ yêu nước mà mù, họ yêu tham vọng hơn là yêu nước, họ cảm thù chế độ vì lẽ riêng, họ vô tư a dua... Chỉ cần biết, vì sự thật lịch sử, vì tình yêu Tổ quốc, ta phải hết sức ngăn chặn thói a dua ấy.

No comments:

Post a Comment