Wednesday, December 31, 2014

Quán xương trắng

Một lần nữa con người vì lầm chấp thân này là thật, là ta, là của ta, là bản ngã của ta nên dính mắc chấp ngã, do chấp ngã mà mọi sự đau khổ đều đổ lên đầu, lên cổ của con người, nhưng mấy ai đã hiểu rõ. Cho nên đức Phật lại dạy chúng ta tư duy quán xét bộ xương trắng của thân con người để được thấm nhuần thân này không phải là ta, là của ta, là bản ngã của ta.

Qua bài Ý HÀNH THÂN HÀNH NIỆM này thì chúng ta càng hiểu rõ bản chất của thân người chỉ là một bộ xương trắng màu vỏ ốc và nếu bộ xương này chỉ bỏ ngoài đồng trong hơn một năm sau thì chỉ còn là một đống bột trắng hôi thối rất bẩn chẳng ai dám lại gần:

“Lại nữa, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo như thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn toàn xương trắng màu vỏ ốc... chỉ còn một đống xương lâu hơn một năm... chỉ còn là xương thối trở thành bột; tỳ-kheo quán thân ấy như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi bản chất ấy”. Trong khi vị ấy sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, các niệm và tư duy thuộc về thế tục được đoạn trừ. Nhờ đoạn trừ các pháp ấy, nội tâm được an trú, an tọa, chuyên nhất, định tĩnh. Như vậy, này các tỳ-kheo, tỳ-kheo tu tập THÂN HÀNH NIỆM”.

Đúng vậy, toàn thân con người gồm từ da, thịt, xương, máu, mủ, đờm dãi đều là đồ bất tịnh hôi thối ghê gớm. Con người chết hôi thối hơn những con vật khác. Ngày xưa bên nước Ấn Độ người ta chết đều đem xác người chết bỏ vào rừng, vì thế những khu rừng ấy gọi là rừng thây ma, hay còn gọi nơi đó là LÂM TÁNG.

Cho nên thời đức Phật các vị Tỳ kheo thường vào rừng thây ma mà quán thân bất tịnh trương phồng hôi thối v.v…

Đó là một phương pháp quán thây ma rất thực tế mà chỉ có nước Ấn Độ có mà thôi, còn bây giờ thì sao?

Vì cả một thế giới nhiều nước đều hợp tác với nhau để giữ gìn vệ sinh chung, môi trường sống của loài người luôn luôn phải được trong sạch, nên việc an táng như vậy đều bị Chính phủ nước đó đình chỉ việc chôn cất như vậy.

Hiện giờ các nước đều khích lệ hỏa táng là vệ sinh nhất, nhưng ở Việt Nam còn theo tục lệ địa táng. Cho nên muốn bãi bỏ một tục lệ nào cũng rất khó khăn, vì nó đã ăn sâu vào tư tưởng con người, dù họ biết đúng nhưng chưa bỏ được.

Trưởng lão Thích Thông Lạc
Và đây là bộ sách của Thầy Thích Thông Lạc mà tác giả Blog đã sưu tập (tạm thời), bạn có thể tải về: Click tại đây

Khổ đau và hạnh phúc

Một người bạn là giáo viên dạy vật lý (chỉ tin những gì mắt thấy tai nghe, kiểm chứng được…), con cái gặp chuyện chẳng may, muốn tìm đến với đạo Phật. Anh thắc mắc: Đạo Phật cho đời là bể khổ có đúng chăng?

Đời đâu phải hoàn toàn khổ mà còn có vui. Giàu có, sung sướng, ăn ngon, mặc đẹp, nhà cao cửa rộng, được thỏa mãn mọi nhu cầu... sao bảo là khổ? Đứa bé ra đời ai cũng mừng sao bảo sinh là khổ? Bệnh thì khổ thật nhưng lão, tử đâu phải ai cũng khổ cả đâu! Có người có tuổi già rất đẹp, có cái chết thật bình yên sao bảo khổ? Đem giáo lý học thuộc trong sách Phật học, tôi trả lời anh: Đời là khổ, sinh lão bệnh tử khổ; thương yêu mà không được gần gũi phải chia lìa là khổ; cầu mong, ước muốn không được là khổ; không hợp, không vừa ý, ghét nhau mà phải chạm mặt hàng ngày hay chung sống là khổ; có thân năm ấm thì khổ. Rồi dẫn ba loại khổ: nào khổ khổ, hoại khổ và hành khổ! Tôi cố ra sức biện bạch, chứng minh tất cả những thứ trên đều vô thường, có đó không đó, để đi đến kết luận đời là khổ, nhìn đâu cũng thấy khổ!

Và một chị bạn quay quắt trước hoàn cảnh bế tắc của mình, tôi khuyên chị đi chùa. Chị đã cật vấn: Đến chùa liệu có giải quyết được mọi chuyện? Hoàn cảnh tôi bế tắc thế này làm sao có thể… Nhiều người có bao giờ đặt chân đến chùa mà cứ sướng phây phây, mấy người nghèo khổ, khó khăn, bệnh tật đến chùa có thay đổi được gì, hay khổ lại hoàn khổ? Tôi trả lời chị: Đời là khổ, có ai thoát khỏi khổ! Đạo Phật là đạo diệt khổ nên đi chùa, tìm đến với đạo Phật là giải pháp đúng đắn. Khổ đau, bệnh tật, nghèo túng... tất cả đều do nghiệp. Vậy chỉ có cách đến chùa tu tập, dần dần chuyển nghiệp… mới từ từ hết khổ.

Mặc dù cố ra sức phân tích, giải thích này nọ tôi vẫn không thuyết phục được họ. Trái lại, vô tình tôi đã trùm lên đạo Phật một bức màn ảm đạm, có thể đã khiến cả hai người ngần ngại đến với đạo Phật! Thật ra điều hai người bạn kia đặt ra làm tôi không khỏi băn khoăn, trăn trở: Đạo Phật khẳng định đời là khổ phải chăng là tiêu cực? Có điều chắc chắn, một thực tế không ai chối cãi là đời người ai cũng khổ, từ một vị tổng thống quyền uy đến kẻ bần cùng đều khổ cả, đó là một sự thật! Nào ai thoát khỏi khổ lụy phiền não lo âu?

Cái thảm cảnh bi đát nằm ngay trước mắt bên tai, ngay trong mỗi người; những sự thật có thể thấy nghe chứ không ở đâu xa. Đứa bé ra đời, từ khi thụ thai nằm trong bụng mẹ cho đến khi sinh ra mẹ con đều đau đớn: khổ; sinh đẻ biết bao hiểm nguy: khổ; sinh ra thân thể không bình thường, khiếm khuyết: khổ; vào đời gặp cảnh nghèo túng: khổ; thi cử không đậu: khổ; công danh sự nghiệp lận đận: khổ; quan hệ với người xung quanh không suôn sẻ: khổ; tình yêu trắc trở: khổ; đau ốm bệnh tật: khổ; bị giựt hụi lâm nợ: khổ; con cái hư hỏng: khổ; người thân qua đời: khổ; bị người nói nặng nói nhẹ cũng khổ… Đủ trăm, ngàn lý do khổ. Người nghèo khổ đã đành mà người giàu có, chức trọng quyền cao cũng khổ! Khổ đè nặng lên thân phận con người. Cuộc sống càng văn minh, nhu cầu tiêu dùng, hưởng thụ vật chất ngày càng đạt đến đỉnh cao thì nỗi khổ càng nhiều; mối quan hệ càng rộng thì nỗi khổ đau càng lớn do vướng mắc và hệ lụy càng nhiều thêm. Nỗi khổ cuộc đời xưa nay không bút mực thế gian nào kể xiết. Có thể nói bao nhiêu áng văn thơ bất hủ Đông Tây kim cổ là bấy nhiêu thiên tình sử bi hận, cũng chỉ nhằm diễn tả nỗi khổ bi lụy của con người. Thoạt sinh ra thì đà khóc óe. Trần có vui sao chẳng cười khì (Chữ Nhàn-Nguyễn Công Trứ). Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu…, Roméo & Juliette của William Shakespeare, Truyện Kiều của Nguyễn Du… là những tác phẩm tiêu biểu nói về nỗi thống khổ muôn đời của con người:

Trải qua một cuộc bể dâu.
Những điểu trông thấy mà
đau đớn lòng!

Trong Cung oán ngâm khúc, thay mặt một cung nữ, Ôn Như Hầu đã thốt lên tiếng kêu than não ruột! Cũng chính là nỗi khổ đau vạn thuở của con người:

Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ bèo ngoài bến mê!

Hay:

Lò cừ nung nấu sự đời,
Bức tranh vân cẩu vẽ người
tang thương!

Có lẽ chính vì thế, bài học đầu tiên sau khi chứng ngộ chân lý tối thượng dưới cội bồ đề, Đức Phật đã giảng dạy cho chúng sinh - chuyển Pháp luân - mà trực tiếp cho năm vị đạo sĩ đồng tu trước đây, anh em Kiều Trần Như là Tứ diệu đế hay Tứ Thánh đế tức Bốn chân lý tối thượng: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Phật dạy đây là khổ: Khổ đế; đây là nguyên nhân dẫn đến khổ: Tập đế; đây là trạng thái chấm dứt khổ tức an lạc: Diệt đế; và đây con đường đưa đến vắng mặt khổ đau tức an vui hạnh phúc: Đạo đế. Bốn đế đều có tương quan tương tức với nhau. Gọi là chân lý mầu nhiệm vì Tứ diệu đế bao trùm mọi tương quan duyên khởi, chi phối hết thảy hiện tượng sự vật; trong đó một đế dung chứa và thâu nhiếp ba đế còn lại. Nói đến khổ tức phải có nguyên nhân dẫn đến khổ, chứ không do ai tạo ra kể cả các đấng thần linh, trời hay thượng đế. Và hễ có khổ tức có lạc và ngược lại. Khổ và lạc là hai mặt của cùng một thực tại như trong ngoài, đúng sai, phải trái… Không có bên trái thì biết đâu là bên phải, không đúng làm sao có sai. Mà có nguyên nhân tạo ra khổ thì có phương cách, con đường diệt khổ. Đó là đạo, con đường diệt khổ. Khổ là một trong ba pháp ấn để nhận diện đạo Phật: vô thường, khổ, vô ngã.

Phật dạy đời là khổ nhằm xác định một lẽ thật. Nhưng ngay đó Phật cũng dạy đời có an lạc, hạnh phúc (nếu không Phật chỉ dạy tu hành để làm gì!) và người tu Phật phải tìm giải thoát, giác ngộ ngay nơi cuộc đời khổ đau và Niết bàn không đâu khác ngoài cõi Ta bà. Rõ ràng, đây là một khẳng định mang tính tích cực! Cứu khổ chúng sanh là lý do sự hiện diện của mười phương chư Phật và cũng chính là đại nguyện của chư Bồ tát. Thế gian này không khổ đau chắc chắn Phật không thị hiện. Khổ đau là điều có thật, nhưng vắng mặt khổ đau tức an lạc hạnh phúc cũng có liền ngay sau đó, nếu biết nhận diện và thấu triệt nó. Trước khổ đau, luận điệu thông thường của nhiều người là tìm cách chối bỏ, tránh né bằng cách đọc báo, xem sách, coi phim hay tìm đến rượu, ma túy hoặc ái dục... Thời đại ngày nay phim ảnh đủ loại, trò chơi điện tử có khả năng ru ngủ, đưa con người vào thế giới ảo, làm quên đi tất cả! Nhưng đó chỉ là giả, là ảo nên làm sao có tác dụng đem lại bình an đích thực, chấm dứt cơn say (say rượu, ma túy hay say mộng cũng thế). Khi trở về với thân phận thực tại, những nỗi khổ đau kia đã không giảm còn tăng lên gấp bội! Khi không thể chạy trốn được nữa, người ta kêu trời van đất, đổ cho số phận.
*****

Để hóa giải khổ đau, Đức Phật dạy ta phải trực diện nó, nhận diện để biết được bản chất thực của nó thuộc loại nào; thuộc thân hay tâm, do chính mình hay ngoại cảnh, tác động ra sao đối với mình. Biết được nguyên nhân, ta có ngay phương cách đối trị và bước đầu ta đã bớt khổ tức có an lạc.

Ví như nhà ở thành phố bị dột có thể là một kinh nghiệm hay: ba bên bốn bề tường thành bao bọc, mái lại bị trần che kín, thấy nước giọt đó mà chẳng biết dột ở đâu. Thật là bực bội và khổ sở vô cùng! Cho đến khi phát hiện được lỗ hổng ở góc mái, mặc dù chưa khắc phục được nước dột nhưng chỉ cần biết chỗ dột (nguyên nhân) là đã thở phào nhẹ nhõm, nỗi khổ đã vơi bớt. Chỉ cần trám đúng chỗ thủng là xong. Một ví dụ khác, cơ thể có triệu chứng bần thần, uể oải, tức ngực - không biết bệnh gì đây. Có người đã hoảng lên, mất ăn bỏ ngủ, ai bày gì làm nấy, bệnh đã không giảm lại tăng thêm. Người khác, ngược lại tỉnh rụi cứ làm việc, ăn chơi, uống rượu, hút thuốc. Cả hai thái độ thái quá, quá lo lắng hay bất cập xem thường đều không phù hợp. Đức Phật dạy ta phải mạnh dạn nhận ra mình đang có bệnh và bình tĩnh tìm nguyên nhân để có giải pháp trị liệu thích hợp. Thật vậy, chỉ cần được một bác sĩ phát hiện đúng tình trạng là không phải ung thư hoặc ung thư nhưng mới giai đoạn đầu còn chữa được. Chỉ cần biết thế, tuy bệnh chưa lành nhưng đã thấy nhẹ ra, không còn phải lo lắng khổ sở. Trong kinh Tập Sanh, Phật dạy: "Cái gì đã xảy ra cho ta, nếu quán chiếu sâu sắc vào tự thân nó là ta đã bắt đầu đi trên đường giải thoát".

Biết quán chiếu sâu sắc, Đức Phật dạy ta thấy ngay trong khổ đau đã sẵn có mầm mống, có bóng dáng của an vui hạnh phúc. Chưa bị lạnh làm sao biết sự thú vị khi được trùm trong chăn ấm. Không bị cái đói hành hạ làm sao biết hạnh phúc khi được ăn no. Không khổ đau làm sao biết thảnh thơi an lạc. Khổ đau được tạo nên từ những cái không phải khổ đau. Cũng thế, hạnh phúc được tạo nên bằng những cái không phải hạnh phúc. Như thế, phải chăng khổ đau và hạnh phúc tương quan duyên sinh! Ta khổ sở vì cơn đau răng hay đau đầu hành hạ nhưng lạ thay khi cơn đau qua đi, ta vội quên ngay không biết đến cảm giác an lạc khi không bị đau răng hay đau đầu. Như thế thực sự có đau răng, đau đầu thì ta phải biết có nỗi sung sướng khi không đau răng, đau đầu. Đó chẳng phải hạnh phúc? Không mấy ai ý thức niềm hạnh phúc khi có đôi mắt sáng, nhìn thấy được mọi vật, thấy người quen kẻ lạ, thấy người thân yêu, thấy trời xanh mây trắng… mà lại cho là điều bình thường rồi truy tìm hạnh phúc một nơi khác, chưa có hoặc không bao giờ có! Cho đến khi mắt bị hỏng không còn trông thấy, mới hiểu ra là có một cặp mắt bình thường quả là mầu nhiệm. Bao người vô tình bỏ lỡ không biết sống với mầu nhiệm của cuộc sống trong giây phút hiện tại mà cứ rong ruổi theo quá khứ hay mơ ước tương lai, đâm ra lo lắng, ưu tư khổ sở! Cũng như để ban tặng cho con người những hạt ngọc trai long lanh và quý giá, con trai biển đã trải qua những cơn đau vật vã tột cùng (do thiên nhiên hoặc con người tạo ra). Để sống còn, nó đã phải tiết ra một chất tạm gọi ‘chất men’ bao bọc hạt cát. Tất nhiên, có con không đủ bản lĩnh đã phải chết! Con người có thể học bài học từ loài trai chế tác hạnh phúc từ khổ đau…

Theo giáo lý đạo Phật, con người là một giả hợp gồm năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Sắc tức là thân và tâm gồm thọ, tưởng, hành, thức. Cơ thể gặp trục trặc sinh bệnh tật hoặc tuổi già, thân thể lão hóa đau nhức… là khổ về thân. Khi lo lắng, giận dữ, buồn phiền… là khổ về tâm. Thân và tâm có mối quan hệ chặt chẽ: Thân bị bệnh thì tâm khổ đã đành nhưng tâm bất an, lo lắng sẽ ảnh hưởng đến thân… ăn mất ngon, ngủ không yên thì cũng khổ. Nhưng khổ không phải do năm uẩn hay năm uẩn vô thường… mà khổ chủ yếu do khát ái năm uẩn thành ra thủ chấp, vướng mắc tạo ra khổ "như cái vòng luẩn quẩn". Và gốc rễ của mọi khổ đau đều do vô minh tức thái độ lầm lẫn, bám víu vào "cái ta" (chấp ngã) và cái "của ta" (chấp pháp). Nói cách khác, nguyên nhân chủ yếu của mọi nỗi khổ xuất phát từ "tưởng", tức vọng tưởng hay tri giác sai lầm phát xuất từ vô minh! Tưởng lầm sợi dây là con rắn đâm sợ hãi, thân này giả hợp mà cho là thật đâm ra vướng mắc! Tưởng của cải vật chất là thật, là vĩnh cửu muốn sở hữu mãi mãi nên chấp giữ… Lịch sử tồn tại của nhân loại từ ngàn xưa cho đến tận ngày nay với những cuộc chiến tranh tàn khốc đều có nguyên nhân từ các xung đột tôn giáo, ý thức hệ… nguồn gốc đều bắt đầu từ vọng tưởng tức tri giác sai lầm. Đức Phật dạy phải nhận diện nó chính là vô minh tức thiếu trí tuệ dẫn đến tham sân si, cội nguồn của mọi khổ đau. Do đó, Phật dạy phải "viễn ly điên đảo mộng tưởng" mới đạt "cứu cánh Niết bàn".

Trong cuộc sống, người nào gặp khổ đau, bất trắc... khi cùng đường, bế tắc họ mới tìm đến chùa chỉ khấn vái, cầu xin; hay khi cơ thể đau ốm, bệnh tật mà vẫn ăn nhậu, hút thuốc, bài bạc, rượu chè trác táng phung phí sức khỏe; hoặc gặp cảnh túng thiếu, nợ nần không biết dè sẻn, cứ tiêu xài phung phí… lại đến chùa cầu xin Phật, Bồ tát cứu khổ cứu nạn; Phật, Bồ tát dù có lòng đại từ đại bi cũng chỉ cho ta con đường, chứ không ai có thể làm thay cho ai, vì nghiệp nhân ai gây nấy chịu! Mọi sự vật lớn nhỏ sinh ra đều có nhân duyên tạo nên và hoàn cảnh khổ đau hay hạnh phúc của mỗi người đều do chính mỗi người tạo nên. Do đó, người có bệnh muốn lành bệnh, trước hết phải biết mình có bệnh ra sức tìm thầy tìm thuốc, đến bệnh viện truy cho ra nguyên nhân, sau đó tiến hành chữa trị… Cũng thế, muốn thoát khổ đau, trước tiên là phải nhận ra nỗi khổ đau, tìm ra nguyên nhân thì mới có giải pháp phù hợp để trị liệu nhằm chấm dứt khổ đau!

"Khổ đau và hạnh phúc vốn không hai, là hai mặt của cùng một thực tại. Hạnh phúc không thể tìm đâu khác ngoài khổ đau!". Lời dạy minh triết của Đức Phật đã đem lại niềm tin nơi khả năng đoạn trừ khổ đau và đạt an vui hạnh phúc của con người. Đức Phật dạy: "Chỉ nhận diện khổ đau, mỉm cười với nó, ngay đó ta có an vui hạnh phúc!". Khác với các tôn giáo hữu thần đặt cược đời người vào quyền năng tối thượng của một đấng thần linh (Trời hay Thượng đế) có quyền ban ân, giáng họa hay đặt niềm tin vào sự an bài của số mệnh. Họ luôn thụ động chờ đợi sự cứu rỗi hay may mắn tình cờ… nên bế tắc đau khổ vẫn cứ mãi khổ đau! Đạo Phật trái lại, lời Phật dạy trước tiên là một phương cách thực tập thực tiễn và hữu hiệu nhằm trị liệu khổ đau, chế tác an lạc để từ đó có an vui hạnh phúc! Lời Phật dạy đã mở hướng cho tôi, cho bạn và biết bao nhiêu người, mặc dầu hoàn cảnh có thể vẫn vậy, chưa thay đổi nhiều nhưng thái độ đã khác. Như thế là đã có được an vui!

Tản mạn về cuộc sống

Cuộc đời giống như bóng câu qua cửa sổ, thoáng qua rồi mất hút - ngắn ngủi vậy đó. Ai một lần tự nghĩ về cuộc đời mình cũng thấy có lắm cảnh buồn đau, những thất bại trong công việc, trong tình yêu (…) - Những người ta yêu mến nhớ thương rồi cũng rởi bỏ ta về cõi hư vô mịt mùng. Trong cuộc sống bao lần trái tim ta ứa lệ buồn thương, nhưng cũng bao lần chúng ta nở nụ cười vui với cuộc sống ở cõi tạm dâu bể này.!

Vầng trăng trên bầu trời có khi tròn khi khuyết - Cuộc sống ở nhân gian cũng lúc đầy lúc vơi, đổi thay là vậy. Có người cả đời sống an nhàn, an vui. Có người từ nhỏ cơm áo, gạo tiền đã làm cho thấm mệt-nhưng tất cả chúng ta hãy tin vào cuộc sống-hy vọng vào cuộc sống, tìm cho mình những phút giây an vui, những phút giây hồn nhiên, những niểm tin yêu khát khao cháy bỏng.. Bởi vì, chính đó mới là con đường duy nhất mà mỗi chúng ta có thể tự mình thiết lập-nuôi dưỡng,để sống đời không uổng phí của một kiếp dược làm Người!

Cuộc sống cần phải có hướng đi chân chính-lấy nghĩa tình làm trọng, lấy trung tín làm phương châm - Mục đích là ngọn đèn, là bánh lái cho cuộc đời ta trước mọi giông bão thử thách !Mất phương hướng cuộc đời giống như con thuyền không bánh lái lênh đênh giữa muôn trùng hiểm nguy cám dỗ!

Có nhiều con đường mở ra trước mắt chúng ta khi chúng ta vào đời. Con đường nào chúng ta đi, dù bằng phẳng hay trắc trở - đều có chung một đích đến là cõi hạnh phúc yên lành.. Vậy mà có những con đường mòn có sẵn - nhiều người ung dung bước theo -dù không biết con đường này dẫn họ về đâu?. Danh vọng, tiền tài như ma trận nó quấn lấy chúng ta vào vòng xoáy của bất an tội lỗi!. Danh vọng làm chúng ta phải phụ thuộc vào nhiều thứ, nhiều người. mà không có được sự tự do lựa chon? Và tiền tài đôi khi lại trở thành ông chủ tàn ác sai khiến mọi lương tâm đang trong sáng…

Càng suy ngẫm về cuộc đời, chúng ta càng thấy đời sống này đáng trân quý biết bao.!Cuộc sống sẽ là một vườn hoa thơm cỏ lạ, Là những bài ca sóng vỗ êm đềm thơ mộng.  - Nếu chúng ta luôn đến với cuộc đời bằng nụ cười bao dung, bằng tâm hồn thiết tha rộng mở - Vì bận rộn với những lo toan nhiều lúc không thật cần thiết, nhiều lúc quá yêu cầu của đời sống - nên chìm đắm mãi trong mê cung vật chất, nhốt linh hồn vào địa ngục - thậm chí đã bán rẻ linh hồn cho quỷ.?

Một nhà văn nào đó đã từng nói "hãy mỉm cười với cuộc đời - thì cuộc đời sẽ mỉm cười lại với chúng ta" - Cuộc đời là vậy đó…

Dứt bỏ danh lợi trong Đạo

Khi đã khoác chiếc áo Tỳ kheo, chúng ta đã nhận được đời sống xuất gia, không thể như đời sống tại gia được, hoàn toàn phải đoạn trừ tâm luyến ái, viễn ly, xa lìa, từ khước tâm danh, tâm lợi của đời sống thế gian. Không những chỉ đoạn trừ tâm danh lợi ở thế gian mà còn phải đoạn trừ tâm danh lợi trong Đạo. Danh lợi mang hình thức là Đạo nhưng thật sự nó là tâm danh lợi của con người.

Quý Thầy hãy đề phòng cảnh giác, đừng quên rằng cái tâm gian xảo của quý Thầy sẽ lường gạt chính quý Thầy, khiến cho quý Thầy tưởng mình không danh lợi, tưởng mình tu chân chánh.

Quý Thầy đã lầm, nó sai khiến quý Thầy như một tên nô lệ, làm tất cả mọi cái gì nó muốn, chỉ cần nó che đậy mắt quý Thầy bằng những danh từ cao thượng, “độ chúng sanh, làm lợi ích Phật Pháp”. Thế là, quý Thầy đã an tâm, “vì Phật Pháp, vì chúng sanh”.

Quý Thầy nên nhớ kỹ từ khi mới vào chùa xuất gia tu hành, quý Thầy chỉ là một chú “Điệu” chẳng có danh có lợi gì cả. Ăn rồi học giáo lý, hàng ngày cúng bái tụng niệm.

Sau thời gian năm năm, mười năm đi làm giảng sư, làm trụ trì chùa này hoặc chùa kia. Bây giờ, danh và lợi làm mờ mắt quý vị. Quý vị suốt ngày hết làm Phật sự này đến làm Phật sự khác. Nói danh từ Phật sự nghe cho thanh cao chứ thật sự quý Thầy đang hành một cái nghề làm “tôn giáo” để cầu danh, mưu lợi cho bản thân quý Thầy.

Quý Thầy quên rồi, quý Thầy là những người từ bỏ danh lợi, bỏ tất cả tình thương của thế tục, để tu hành tìm đường giải thoát.

Thế mà, bây giờ quý Thầy lại chạy theo danh lợi, bằng những danh từ khác, danh từ cao thượng “Phật sự, Như Lai sứ giả, tu Bồ Tát hạnh, hành Bồ Tát đạo”. Ai nghe đến những danh từ này cũng phải kính nể, quỳ lạy sát đất.

Quý Thầy có tự xét lại mình không? Có buồn cười cho chính bản thân mình không? Hàng ngày quý Thầy đi thuyết giảng dạy người tu cái này, cái kia mà quý Thầy lại tu không được những điều quý Thầy đã giảng dạy, quý Thầy nói láo đó. Quý Thầy có biết không?

Lời giảng dạy của quý Thầy rất tuyệt vời, ý nghĩa thâm sâu tưởng chừng quý Thầy là vị Phật sống. Nhưng xét kỹ cách thức sống của quý Thầy, người ta không khỏi ngạc nhiên, quý Thầy dạy một điều mà cuộc sống của quý Thầy lại sống một ngả.

Hồi mới vào tu, thì nghèo xơ nghèo xác, đến chừng làm trụ trì, giảng sư, Thiền sư thì quý Thầy bắt đầu giàu có, chùa dần dần xây dựng vĩ đại, đồ sộ, vật dụng thế gian không có một vật gì thiếu cả.

Mới vào tu quý Thầy cưỡi chiếc xe đạp cũ mèm, sau thời gian thì có xe Honda rồi xe Dream, càng tu quý Thầy lại càng giàu ra nhiều, có cả ô tô thứ thượng hạng, ngoài đời người ta có cái gì thì quý Thầy có cái nấy.

Ở đời, người ta tìm danh, tìm lợi rất khó, quý Thầy ở trong Đạo tìm danh tìm lợi rất dễ dàng. Ngoài đời, người ta làm lụng tìm ra miếng cơm manh áo rất là vất vả, khổ nhọc. Trong Đạo, quý Thầy ăn không ngồi rồi, học tập chơi đùa chẳng làm động móng tay, quần áo sang đẹp, bánh trái đồ ăn thực phẩm ăn không hết. Vì thế, người đi tu theo đạo Phật hiện giờ không tìm sự giải thoát mà chỉ nhắm vào danh và lợi.

Pháp môn của Phật giáo phát triển hiện giờ quý Thầy đang tu là pháp môn dạy tu danh lợi. Tại sao chúng ta biết như vậy?

Thấy cách thức sống của quý Thầy là thấu rõ, còn những pháp môn dạy tu giải thoát thì quý Thầy đã ném qua một bên, không còn lưu ý đến nó nữa. Không phải quý Thầy không biết, nhưng vì pháp môn đó sống không dục lạc.

Những pháp môn này dạy xả ly, bỏ danh, bỏ lợi, đời sống tu sĩ chẳng có gì, thiểu dục tri túc, khắc kỷ với mình, sống ba y một bát. Đời sống giải thoát là như vậy, mới chính là người tu sĩ của đạo Phật.

Muốn giải thoát theo nghĩa của đạo Phật, mà không chịu vứt bỏ đời sống thế gian thì đâu còn nghĩa lý gì giải thoát của đạo Phật nữa.

Người tu sĩ đạo Phật muốn thể hiện độ người tu giải thoát thì phải thể hiện sự sống giải thoát tức là ly dục ly ác pháp, ly vật chất của cải tài sản tiền bạc châu báu thế gian, lìa chùa to tháp lớn, lìa danh lìa lợi, lìa nữ sắc, lìa ăn ngon, mặc đẹp v.v.. Nếu sự sống mà ly được như vậy thì đó là gương hạnh độ người tu tập. Lời nói thuyết giảng giáo lý kinh điển của đạo Phật đều phải phù hợp với cách sống của mình không sai một mảy. Nếu sống ngược lại, thì lời nói thuyết giảng kinh sách không đi đôi với cuộc sống của mình, như vậy là lừa bịp, lường gạt người khác, sống trong mát ăn bát vàng, bằng mồ hôi nước mắt của người khác. Thật đáng phỉ nhổ và khinh bỉ. Đã không độ được người giải thoát mà còn làm hoen ố đạo Phật, khiến cho Phật Pháp suy đồi, chánh pháp chìm mất. Người trí hiểu biết nhìn vào đạo Phật khinh dễ và nghi ngờ.

Này, quý Thầy! Bổn phận và trọng trách đối với đạo Phật, quý Thầy không thể làm ngơ làm điếc làm đui được. Quý Thầy đã từng học và đã nghiên cứu kinh sách của đạo Phật. Đã thông suốt lý của Đạo, đời sống của Đạo. Cớ sao quý Thầy lại sống, lại tu tập không đúng lời dạy của đức Phật. Đó là, một lỗi lầm rất lớn mà quý Thầy phải chịu trách nhiệm đối với đạo Phật và tín đồ.

Nếu không có Tạng Kinh A Hàm và Tạng Kinh Nikaya, thì làm sao còn biết đâu là đạo Phật nữa; còn biết đâu là đường lối tu hành chân chánh của đạo Phật.

Muốn làm sáng tỏ đạo Phật; muốn cứu mình ra khỏi cuộc đời trầm luân đau khổ và sanh tử luân hồi, không gì hơn là quý Thầy phải quay về đường tu tập chân chánh của đạo Phật mà hai Tạng Kinh này đã dạy rất rõ. Quý Thầy phải bỏ danh lợi trong Đạo mà đức Phật đã dạy: “Có danh có lợi thì nên ẩn bóng”, vượt ra khỏi những dây xích sắt danh và lợi của tôn giáo, chọn đời sống Phạm hạnh của người tu sĩ Phật giáo chân chánh, thì đạo Phật chẳng làm gì nó sẽ sáng chói và huy hoàng.

Gương hạnh sống đó, ly dục ly ác pháp, giúp cho quý Thầy nhập được các định làm chủ được sự sống chết, chấm dứt được sự tái sanh luân hồi và còn giúp mọi người biết buông xả, dứt các điều ác, tăng trưởng các điều lành mang lại hạnh phúc, an vui cho mình, cho người và xã hội.

Trưởng Lão ThíchThông Lạc
Và đây là bộ sách của Thầy Thích Thông Lạc mà tác giả Blog đã sưu tập (tạm thời), bạn có thể tải về: Click tại đây

Nẻo vào đạo đức

Hỏi: Kính thưa Thầy, “ngăn ác diệt ác pháp” xong lại phải “không làm khổ mình khổ người” trước đây con thấy nó là mâu thuẫn nhau, từ lá thư của Thầy chỉ bảo cho con, con sáng tỏ được nhiều, con hiểu rằng muốn thực hiện được điều đó còn đòi hỏi sự khéo léo phải không thưa Thầy ?

Mình thấy cái ác, cái làm khổ mình khổ người, cái vô lý thì phải chống lại nó, xong phải làm sao cho người ác hiểu ra mà không được dùng lời nói hành động làm họ đau đớn phải không thưa Thầy ?

Trong mọi cuốn sách của Thầy, cuốn nào con cũng thấy Thầy nhắc đi nhắc lại “không làm khổ mình khổ người” đến nay con hiểu rằng đó là cứu cánh, nếu thực hiện đúng thì cuộc sống của chúng ta dễ chịu biết bao và đó là Niết Bàn tại thế, có phải không thưa Thầy?

Đáp: Đúng vậy, ngăn ác diệt ác pháp tức là không làm khổ mình khổ người. Không làm khổ mình khổ người là một đạo đức cao thượng tuyệt vời, vì thế không những phải khéo léo mà còn phải thiện xảo trong mọi hành động từ lời ăn tiếng nói đến những cử chỉ và sự tư duy suy nghĩ, phải khéo léo thiện xảo tỉnh thức hoàn toàn.

Đúng vậy, thấy cái ác, cái làm khổ mình khổ người, cái vô lý, cái phi đạo đức thì mình phải chống lại để đem lại sự an vui hạnh phúc cho nhiều người bằng một sự công bằng và công lý, chứ không phải chỉ có đem lại sự an vui hạnh phúc cho một cá nhân của mình . Vì chống lại sự bất công, sự vô lý, sự phi đạo đức, thì phải có sự va chạm, sự va chạm ấy chúng ta phải khéo léo thiện xảo khiến cho sự va chạm ấy trở thành mát lạnh, vì thế mọi người mới được an vui .

Cũng như Thầy viết kinh sách nói thẳng nói thật, vì biết những lời nói này sẽ mang lại ích lợi lớn cho nhiều người và chỉ va chạm với một số ít người đang bị danh lợi làm mờ mắt, nhưng cũng là tiếng cảnh tỉnh cho họ và sẽ có lợi ích cho họ sau này.

Ngăn ác diệt ác là một việc làm rất tế nhị, thiện xảo, khéo léo, cho nên nó nêu rõ hành động của chúng ta khi gặp đối tượng có cả hai vế một lượt: “không làm khổ mình khổ người”, nếu một vế thì chúng ta rất dễ làm, còn hai vế là một điều rất khó, nếu chúng ta không thiện xảo khéo léo thì không thể nào thực hiện được đạo đức nhân bản này. Cho nên đức Phật dạy: “Thiện xảo nhập vào thiện pháp, thiện xảo an trú sống trong thiện pháp”.

Phần nhiều thiện xảo là cố tránh né va chạm, cho nên lấy nhẫn nhục làm đầu cuộc đấu tranh tư tưởng, kế đó mới tùy thuận nhưng tùy thuận không bị lôi cuốn là một thiện xảo tuyệt vời giúp cho mình vui người khác vui, vì thế mới được gọi là bằng lòng cả hai mình và người.

Đúng vậy con đã hiểu không làm khổ mình khổ người là một cảnh giới Niết bàn, là Thiên đàng tại thế gian chứ đâu còn tìm kiếm nơi đâu . Sự tu hành theo đạo Phật chỉ có bấy nhiêu đây thôi “Không làm khổ mình khổ người”. Nhưng nó là một trường kỳ chiến đấu với nội tâm chứ không phải tu một ngày một bữa là xong. Sự chiến đấu này phải có đầy đủ nghị lực kiên cường, bền chí gan dạ phi thường và còn phải có trí tuệ sáng suốt, khéo léo và thiện xảo trong mọi hành động đối sử với các pháp thì mới không làm khổ mình khổ người, bởi chính nó là nền đạo đức nhân bản của đạo Phật.

Vài hàng cháu rõ thăm và chúc cháu thành tựu đạo đức nhân bản không làm khổ mình khổ người trong mọi hoàn cảnh để đem lại cho mình cho người một hạnh phúc chân thật.

ĐVXP tập IX
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Và đây là bộ sách của Thầy Thích Thông Lạc mà tác giả Blog đã sưu tập (tạm thời), bạn có thể tải về: Click tại đây

DẠY KHÔN CHO CÁC HỢM

Các hợm hay thắc mắc một câu ất ơ như này "sao các nước Âu Mỹ người ta không dạy CNXH, không dạy triết học Mác Lenin còn Việt Nam thì ...


Các hợm lấy Âu - Mỹ làm chuẩn làm thước đo cho văn minh nhân loại, hễ cái gì Tây không làm, Tây không theo là sai và lên án.! 

Các hợm biết xài internet nhưng không biết một quy luật căn bản của loài người là giai cấp nào lãnh đạo thì giai cấp đó thống trị giá trị tinh thần. Hệ thống tư tưởng, giáo dục nền tảng của giai cấp đó sẽ được áp đặt lên xã hội. 

Ở Trung Quốc, mấy ngàn năm phong kiến thì tư tưởng chủ đạo là "Trung quân - Ái quốc ". 

Ông vua được gọi là "con trời ", chả biết ông Trời họ gì nhưng "con trời" thì đổi họ lia chia lúc thì họ Lưu , lúc họ Tư Mã , Lúc họ Triệu .. mới đây thì Ái Tân Giác La. Hệ tư tưởng nay giúp chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại mấy ngàn năm. 

Châu Âu cũng trải qua hàng ngàn năm phong kiến, nhưng thứ phong kiến châu Âu không hoàn toàn là "chuyên chế" vì bị ảnh hưởng của Thần quyền. Giáo Hội La Mã mới đích thực là một vương triều với đầy đủ các cơ cấu quyền lực: tiền + quân sự + thống trị tư tưởng. Giáo Hoàng là Vua của các Vua ở châu Âu. Châu Âu phong kiến đội ông Chúa Trời lên đầu và ngoan ngoãn tuân mệnh Vatican vì Giáo Hoàng đại diện cho Chúa tại thế gian để được Chúa cứu vớt khi ngày tận thế đến. Trong đêm trường Trung cổ có biết bao nhiêu nhà khoa học, nhà triết học trở thành món thịt nướng chỉ vì phát ngôn những điều "chống lại Kinh Thánh".

Các bạn so sánh xem quân chủ chuyên chế Trung Quốc và Thần quyền châu Âu khác nhau chỗ nào? 

Vatian áp đặt Giáo Hoàng là đại diện của Chúa. Trung Quốc thì bắt dân xem ông Vua là tức con Trời. Áp đặt hệ tư tưởng là cách giai cấp cầm quyền phải làm để đảm bảo chế độ tồn tại. 

Ở các nước Âu - Mỹ giai cấp tư sản nắm quyền lãnh đạo thì nhà cầm quyền xem trọng hệ tư tưởng, học thuyết đảm bảo chế độ của họ tồn tại thì có gì phải ngạc nhiên? 

Việt Nam là một nước được lãnh đạo bởi giai cấp lao động. 

1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

(Điều 4 Hiến Pháp CHXHCN Việt Nam)

Vậy thì hệ tư tưởng XHCN được xem trọng, được phổ biến rộng rãi có gì phải xoắn? 

Âu Mỹ xem trọng hệ tư tưởng Tư sản đảm bảo chế độ của tồn tại thì được còn Việt Nam xem trọng hệ tư tưởng đảm bảo chế độ XHCN tồn tại thì không được sao? 

Che Guevara: "khi bạn phẫn nộ trước bất công thì bạn là đồng chí của tôi".
Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước tôi hoàn toàn độc lập, đồng bào tôi được hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành."

Nếu bạn cho rằng đó là cộng sản thì tôi là người Cộng Sản". ( Bác Hồ trả lời câu hỏi "có phải ông là người cộng sản?" vào năm 1946 )

Lý tưởng Cộng sản bắt nguồn từ trắc ẩn, vị tha, cao đẹp như vậy? Tại sao được Phương Tây miêu tả như ác quỷ? Không có gì khó hiểu, giai cấp cầm quyền Phương Tây e sợ một hệ tư tưởng khác xâm nhập, làm lung lay chế độ của họ. Một chiến dịch "văn hóa vận" quy mô toàn cầu được Phương Tây khởi xướng để đánh phá, bóp méo cái gọi là "tư tưởng cộng sản". 

Sau chiến tranh thế giới lần hai, hình ảnh một Liên Bang Xô Viết anh hùng quả nhiên lấp lánh trong mắt thiên hạ. Niềm tin của người ta vào tư tưởng XHCN được lan rộng. Kỳ tích trở thành cường quốc dưới chế độ XHCN và chiến tích đẩy lùi Phát – Xít của Liên Xô làm người Mỹ lo ngại.. Tổng thống Mỹ H.Truman chỉ thị cho Ngoại trưởng George Marshall bằng mọi giá phát tán giá trị Mỹ ra toàn thế giới. CIA được giao thực hiện nhiệm vụ này từ Chỉ thị NB-10/2 của Hội đồng An ninh Quốc gia.

Các bạn có thấy chiến dịch đánh phá "tư tưởng Cộng sản" của giới cầm quyền Phương Tây rất giống cách Vatican triệt hạ các nhà Khoa học, các triết gia tiến bộ bằng cách chụp cho cái mũ "phù thủy , "dị giáo" rồi tống họ lên giàn hỏa thiêu không? 

Những kẻ được phương Tây ngu hóa nhồi nhét khái niệm "Satan Cộng sản" vào đầu vẫn ngày ngày gào rú chửi rủa Cộng sản nhưng họ đã bao giờ đọc hiểu những gì Karl Marx viết. 

Những ngu dân thời xưa ùn ùn la hét châm lửa thiêu các nhà khoa học theo lệnh Chúa mà chưa một lần đọc công trình nghiên cứu của người ta. 

Các bạn có thấy giống nhau không?

Mai Anh

Gừng càng già càng cay!

Đang đọc để viết bình luận cho cuốn sách của PGS.TS Vũ Trọng Khải chủ đề “Phát triển nông nghiệp & nông thôn Việt Nam hiện nay –Những bức xúc và trăn trở”, tôi nhận được thông tin trên báo chính thống của nhà nước cho biết trong khi người dân nước mình loay hoay chưa biết trồng cây gì, nuôi con gì thì ngay tại cao nguyên Đà Lạt, các doanh nghiệp Nhật Bản đã bỏ vốn đầu tư thành công với các mô hình rau sạch công nghệ cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thế giới. Chỉ trong thời gian ngắn, những thành công lớn của họ đã mở ra nhiều cơ hội và những dự định táo bạo biến Việt Nam trở thành một “vựa rau an toàn Châu Á”.

Nhìn vào thành công của người Nhật, một đất nước rất nghèo nàn về tài nguyên, mới càng rõ thêm thất bại của Việt Nam trong nông nghiệp – vốn là sở trường hay điều kiện Cần mà ta rất sẵn. Thể chế hay cơ chế – điều kiện Đủ là cái đang rất có vấn đề, càng làm nhức nhối những người quan tâm đến sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn nước ta.

Ở Đà Lạt, Lâm Đồng, cách đây khoảng chục năm, người Việt đã mang giống oải hương (lavender) – loài hoa cho thứ tinh dầu đứng đầu bảng trong danh mục hương trị liệu [aromatherapy]) của Âu châu, dưỡng não (neurophysiology) về để trồng thử hàng hec ta và cũng… lặng lẽ biệt tăm hơi!

Cái căn bệnh “hữu sinh vô dưỡng” đã và đang tràn lan khắp các ngành, chẳng riêng gì nông nghiệp – một thứ “virus” cực kỳ nguy hại, không ký sinh trên cây trồng vật nuôi – mà ký sinh … trong đầu con người! Đà Lạt có một thế mạnh vô song là khí hậu và thời tiết. Miền đất này, đã từng được người trong và ngoài nước tặng cho nhiều mỹ danh: thành phố ngàn thông, thành phố sương mù, tiểu Paris, v.v. nhưng xem ra cái tên mỹ miều và chính xác nhất mà người Đức đã trao tặng thành phố của mùa xuân vĩnh cửu (“Stadt des ewigen Frühlings”) . Quả thật, khí hậu Đà Lạt nó kỳ diệu đến mức tới cả cây cối mà còn… “mắc lừa” . Rất nhiều loài tra trong các sách khảo về sinh trưởng đều ghi rất rõ chỉ trổ hoa vào mùa xuân nhưng về Đà Lạt chúng nở quanh năm tưng bừng. Ở bất kỳ nước nào mà muốn tạo được mội trường mô phỏng như Đà Lạt thì phải chi hàng ngàn đô la cho một mét vuông – của “trời cho” là vậy, đã có “bột” là vậy mà không gột nên “hồ” thì đau lòng và hổ thẹn biết chừng nào!

Lãnh đạo nước ta lâu nay vẫn cứ loay hoay với bài toán tam nông (nông nghiệp, nông thôn và nông dân) kể cả sử dụng nhiều nguồn vốn ODA, và tận dụng triệt để nguồn tài nguyên đất và nước nhưng ngành vẫn không phát triển, cuộc sống của người nông dân (cống hiến nhiều nhất, thiệt thòi nhiều nhất) vẫn kham khổ nhất, chẳng khác gì như vướng mắc khi giải bài toán NP-hard.

Mọi chủ trương, chính sách cứ sửa lỗi này lại phát sinh lỗi khác có khi còn trầm trọng hơn. Hơn một nửa thế kỷ từ khi đất nước độc lập chúng ta đã đào tạo ra hàng ngàn chuyên gia về các lĩnh vực nông nghiệp, có nhiều người tham gia và rất có uy tín trong các chương trình quốc tế về nông nghiệp, nông thôn. Vậy mà tại sao những ý tưởng, giải pháp, kinh nghiệm của họ ít được phổ biến, sử dụng?

Căn bệnh của ngành nông nghiệp, tôi đã phân tích trong bài: “Toàn cảnh bức tranh màu xám của ngành nông nghiệp” tiềm ẩn từ lục phủ, ngũ tạng mà không chịu chữa, chỉ loay hoay trị những triệu chứng nhỡn tiền ngoài da thì hết chỗ này tới chỗ khác “được mùa, mất giá”, hết việc này tới việc khác sẽ … lần lượt theo hiệu ứng đô-mi-nô mà sập xuống. Con đô-mi-nô đầu dãy (đầu têu) là cái đầu, nó lật là cả chuỗi sập theo!

Nhiều nhà quản lý giáo dục thiếu ý thức phát triển tư duy phán xét hiện tượng, quy luật khách quan, học lý thuyết thụ động, thực hành có lý luận quá ít. Người ta kêu chúng ta nhiều thầy hơn thợ... nhưng éo le thay, thợ của chúng ta cũng chưa đủ kiến thức và kỹ năng thực hành với quy trình thực tế cụ thể.

Trong toán học, để đánh giá độ khó (độ phức tạp) của các bài toán, người ta chia các bài toán làm hai loại: Loại thứ nhất gồm những bài toán mà người ta có thể tìm ra thuật toán giải với thời gian giải tăng tương đối chậm theo kích cỡ (size) của bài toán, nôm na kích cỡ bài toán là số biến của nó, cụ thể nếu kích cỡ là n thì thời gian tính chỉ là một đa thức nào đó theo n (chẳng hạn n bình phương, n lập phương, v.v.). Loại thứ hai gồm những bài toán chỉ có thể giải được với thuật toán mà thời gian giải tăng theo hàm mũ của kích cỡ n (chẳng hạn 2 mũ n). Loại sau này gọi là NP-hard. Vì tăng theo hàm mũ là tăng cực nhanh như 2 mũ 64 đã là con số cực kỳ lớn, lớn hơn rất nhiều so với 64 bình phương, cho nên nói nôm na NP-hard có thể hiểu là cực khó.

Cuốn sách ”Phát triển nông nghiệp & nông thôn Việt Nam hiện nay – Những bức xúc và trăn trở” của PGS.TS Vũ Trọng Khải thuộc típ “gừng càng già, càng cay” góp phần chỉ ra hướng giải cho bài toán NP hard nói trên. Nội dung cuốn sách là tập hợp các bài viết của tác giả xuyên suốt trong quá trình dài nghiên cứu và giảng dậy về “tam nông”. Lời văn, nhiều chỗ tự sự, càng làm nổi bật sự trăn trở, bức xúc với những thực trạng ngang trái quan sát được trên thực tế cuộc sống và luôn suy nghĩ để đề xuất những giải pháp trí tuệ với mong muốn cho cuộc sống xã hội tốt đẹp hơn của nhà khoa học tâm huyết trong lĩnh vực quản lý nông nghiệp, nông thôn ở một giai đoạn dài của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp trong thời kỳ đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội.

Các bài viết dẫn chứng những sự kiện trong quá khứ và gần đây mà tác giả đã phát hiện các nguyên nhân bất cập, thẳng thắn phân tích đánh giá và đưa ra giải pháp trước mắt và lâu dài, kể cả biện pháp “đột phá” đến nay có thể nói đã được kiểm chứng thể hiện sự quan sát tinh tế, tầm nhìn và tư duy có tính hệ thống rất sâu sắc của tác giả. Tiếc thay, những ý tưởng và kết quả nghiên cứu đó ít được tiếp thu và phổ biến áp dụng.

Theo tôi biết, anh Khải là người ham mê đọc sách, nghiền ngẫm liên hệ với thực tế, để vắt óc ra từng con chữ đắt giá của riêng mình. Anh viết được nhiều bài hay, sâu sắc là nhờ ý thức trách nhiệm của một công dân – nhà chuyên môn, ngay ở hoàn cảnh khi đó chỉ qua nghiên cứu thông tin còn ít ỏi, anh đã thấu hiểu ở Hungary, các nhà khoa học nông nghiệp nước này không theo học thuyết của Lyshenco, mà lại nghỉên cứu cái mà ở Liên xô cũ người ta coi là phản động, là học thuyết Mendel-Morgan, kết quả là nông nghiệp nước Hung phát triển mạnh... nhưng về sau sự trì trệ lại có nguyên nhân khác, thuộc về phạm trù quản lý hơn là khoa học thuần tuý.

Vũ Trọng Khải là con trai út của Cụ Vũ Trọng Khánh, một trí thức danh tiếng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đầu tiên trong Chính phủ lâm thời của Hồ Chí Minh. Anh đã tiếp thu được nhiều nét giáo dục văn minh từ truyền thống gia đình, nhưng cuộc sống là bất phương trình chứ không phải phương trình. Sự nghiệp của anh Khải có những éo le, phải chịu thiệt thòi nhưng cũng là hoàn cảnh chung, do ảnh hưởng ý thức hệ của hầu hết những người trưởng thành ở giai đoạn này, nhưng những đóng góp cống hiến của anh cho xã hội, rất đáng ghi nhận.

Nếu anh Khải may mắn hơn, theo nguyện vọng thời đó, được đi tu nghiệp ở các nước XHCN (Liên Xô, Trung Quốc...) cũng khó bổ túc được gì tốt hơn, bởi vì giai đoạn đó các đường lối quản lý nói chung và trong lĩnh vực nông nghiệp ở các nước XHCN cũng đang tù mù, bế tắc. Ngay cả khoa học công nghệ trong nông nghiệp (một phần của công nghệ sinh học) họ chỉ tôn sùng học thuyết “làm vườn” của Lyshenko và Michurin, tổ chức nông trang cũng không khác gì Hợp tác xã ở Việt Nam, có hơn chỉ là quy mô và cơ giới hóa nhưng vẫn không cung cấp đủ lương thực và thực phẩm cho nước họ.

Trong cái rủi, có cái may, chính nhờ thử thách, “lửa thử vàng” trong môi trường khắc nghiệt và thực tế ở Việt Nam, bằng sở trường ham học, trí tuệ, và bản lĩnh “con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, Vũ Trọng Khải đã trở thành một trong các nhà khoa học đầu ngành có danh tiếng về nông nghiệp của Việt Nam.

Những kinh nghiệm và trải nghiệm, phương pháp luận khoa học của anh Khải thật đáng quý, nếu được nghiên cứu bổ sung thêm nâng lên thành lý luận (tiếp thu những thành tựu tổng kết ở các nước phát triển) đề ra những giải pháp cho hoàn cảnh mới hiện nay (những bất cập của Hiến pháp và Luật sửa đổi đất đai) sẽ rất có giá trị khoa học để giải quyết các vấn đề đang còn nhiều nguy cơ, thách thức lớn trong vấn đề đất đai, nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Nhìn tấm hình của tác giả ở trang cuối (417) thật ấn tượng với mái đầu tuy đã bạc “lứa tuổi xưa nay hiếm” nhưng nụ cười và ánh mắt vẫn tinh anh, kèm theo câu nói thẳng thắn như xoáy vào tâm can những người đang chịu trách nhiệm về quản lý và điều hành ngành nông nghiệp nước nhà:

“Một nền nông nghiệp đầu độc cả dân tộc một cách hợp pháp thì không có nước nào dám mua sản phẩm của nền nông nghiệp ấy... Hám lợi chụp giật, thì chỉ có thể bán cho Trung Quốc...”

Vì sao, một nhà khoa học gạo cội như Vũ Trọng Khải, đang ở giai đoạn “gừng càng già, càng cay” lại chán nản, rửa tay, gác kiếm, cưa được nickname là “Hèn đại nhân”?! Mới thấm thía tư tưởng của nhà văn Nam Cao thể hiện trong tác phẩm Sống mòn rằng làm người tử tế trong bối cảnh xã hội nhiễu nhương cũng rất khó. Chẳng lẽ bây giờ vẫn khó sao? Phản biện xã hội, đóng góp trí tuệ, tri thức cho xã hội là một việc thiện rất cần thiết, chân cứng đá mềm, không ngừng nghỉ, vì sao lại nghĩ đến kết thúc... Anh Khải ơi!

Tô Văn Trường

Tuesday, December 30, 2014

CÓ NÊN HỎA TÁNG NGƯỜI CHẾT KHÔNG

Có nên hỏa táng người chết không


Có hay không nên hỏa táng người chết. Có khá nhiều người băn khoăn và đặt ra câu hỏi trên. Chúng tôi đã sưu tầm các tư liệu và phỏng vấn các nhà tâm linh, nhà khoa học, những chuyên gia hàng đầu, có sự hiểu biết sâu sắc và chuyên sâu về lĩnh vực chúng ta đang bàn luận, Hy vọng sẽ giúp được độc giả phần nào trả lời các câu hỏi còn băn khoăn

Khi bàn về vấn đề này, chúng tôi đã tham khảo qua nhiều tài liệu khác nhau, cả ở trong nước cũng như ở nhiều nước trên thế giới về việc thờ cúng tro cốt người đã khuất.

Hỏa táng đang trở thành phương thức chôn cất thông dụng?
Ở Việt Namchúng ta, từ trước cho đến nay, trừ các bậc tu hành, còn người bình dân, chết thường địa táng. Mỗi một dân tộc, hay một địa phương lại có những phong tục nghi lễ khác nhau. Ở các nước văn minh, người ta cũng đang chuyển dần từ địa táng sang hỏa táng. Ở Hoa Kỳ, vào thập niên 70, trong 10 người chết mới có một người hỏa táng, nhưng hiện nay cứ 4 người chết đã có một người hỏa táng rồi. Tỷ lệ người hỏa táng hiện nay là 25%. Người ta tiên đoán vào năm 2025, số người chết ở Mỹ được hỏa táng sẽ lên đến 50%.

Riêng ở Việt Nam, do nhu cầu bảo vệ môi trường và dân số tăng nhanh, chính quyền ở nhiều địa phương khuyến khích người dân nên chuyển sang phương thức hoả táng ( thực tế thì nhiều gia đình ở Việt nam chọn cách hỏa táng khi người chết mắc các bệnh hiểm nghèo do sợ sau này bốc mộ không thuê được người bốc). Theo quan niệm hiện đại, hỏa táng là một hình thức rất hợp vệ sinh, bảo vệ được môi sinh, không mất đất, lại giảm bớt được rất nhiều công đoạn như xây mộ, tảo mộ, bảo quản mộ, cải táng, di dời… Cho nên việc hỏa táng càng ngày càng được phổ biến rộng rãi.

Vì vậy, hỏa táng, hay địa táng... chỉ là quan niệm và thói quen của mỗi dân tộc, vùng miền. Việt Namvẫn có thói quen địa táng là chính, nhưng ngay cả địa táng cũng có những cách thức khác nhau. Chẳng hạn như miền Bắc, sau khi chôn vài năm thường "sang cát" nhưng từ Hà Tĩnh trở vào thường chôn thẳng. Do đó, các hình thức chỉ là do thói quen, tập quán, tín ngưỡng... chứ không ảnh hưởng gì tới sự linh thiêng của những người đã chết.


Trong cộng đồng Phật giáo, nhiều người quan niệm nên dành đất cho người sống ở, hơn là xây quá nhiều những mộ chí, những nghĩa trang cho người đã mất. Nhiều gia đình cũng đã lựa chọn phương thức hỏa táng này. Việc hỏa táng đang dần trở nên thông dụng. Cũng có điều khiến nhiều người còn có chút băn khoăn. Với người sống thì rất tốt rồi. Còn với những người đã khuất thì sao? Việc hỏa táng liệu có phù hợp và có điều gì không tốt ảnh hưởng tới người chết không?

Khi hỏi một số nhà ngoại cảm đích thực về việc hỏa táng. (Những nhà ngoại cảm đích thực để phân biệt họ với những kẻ lừa bịp giả danh ngoại cảm làm nhiễu loạn đời sống mà dư luận đang lên án). Họ nói hỏa táng giúp người chết siêu thoát được tốt hơn. Còn việc để tro cốt, thờ cúng tro cốt ở đâu là sở thích của từng gia đình. Không có gì ảnh hưởng đến người chết cả. Có gia đình mang tro cốt về nghĩa trang an táng, xây mộ, phủ cỏ xanh lên như mọi ngôi mộ khác. Có gia đình không có người hương khói, thờ cúng thì gửi vào chùa. Cũng có người để một phần tro cốt lên bàn thờ gia đình. Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào ý thích của gia đình và phong tục tập quán của địa phương.

Ở trong Nam, người dân hay đưa tro cốt về gia đình.Vd như nhà báo, nhà viết kịch Lưu Trọng Văn, con trai nhà thơ lớn rất nổi tiếng Lưu Trọng Lư. Trong khu vườn nhà mình, anh Văn có xây một cái am rất đẹp thờ bố mẹ. Trong am là hai bình tro cốt của nhà thơ Lưu Trọng Lư cùng phu nhân. Phía sau là di ảnh rất đẹp của hai cụ. Nhiều gia đình, không xây am, mà để tro cốt lên bàn thờ. Ngoài Bắc không có phong tục này, và cũng ít người làm như vậy. Họ đưa tro cốt vào mộ, xây ngoài nghĩa trang.

Việc để tro cốt ở đâu, có khi còn là ý nguyện của người đã khuất. Có người yêu cầu con cháu thả tro cốt họ xuống sông, xuống biển hoặc rải xuống nơi họ yêu mến và có nhiều kỷ niệm khi còn sinh sống.

Theo một ký giả người Việt hiện đang sinh sống ở nước ngoài, trong trận bóng tại cầu trường San Francisco, lúc đang diễn ra trận đấu, một chiếc máy bay nhỏ bay trên cầu trường và thả xuống một chất bụi mầu hơi đỏ. Nước Mỹ đã chứng kiến vụ khủng bố ngày 9/11, rồi lại nghe về vi khuẩn Anthrax, nên khán giả chạy tán loạn. Cầu thủ phải ngưng ngay trận đấu.

Về sau báo chí cho biết chất bụi mầu hơi đỏ đó là tro cốt của người quá cố mà khi còn sống ông ta là fan của đội cầu San Francisco. Ông đã để lại di chúc là khi ông chết phải thiêu xác và rải trên cầu truờng San Francisco cho ông.

Vậy đấy các bạn ạ. Một việc đại sự, rất nghiêm túc và linh thiêng, xem ra cũng rất giản dị thôi. Chúc các độc giả sớm có được cách lựa chọn tốt nhất trong việc thờ cúng tro cốt người thân. Cầu mong các cụ siêu thoát!

TBST 

Không có dự tính


Chúng ta hãy đọc kỹ những đoạn kinh Tương Ưng dưới đây, để biết hành động sống của chúng ta hằng ngày như thế nào giải thoát và như thế nào không giải thoát. Thường đức Phật dạy, một người tu hành cần phải siêng năng hằng ngày TU TẬP NGĂN ÁC PHÁP DIỆT ÁC PHÁP, SINH THIỆN TĂNG TRƯỞNG THIỆN PHÁP. Để biết hành động sống của chúng ta có giải thoát hay không giải thoát, làm việc thiện có lợi ích phước báo hay không, mà đức Phật đã dạy:

“Này các thầy tỳ kheo, nếu người nào còn bị vô minh chi phối, dự tính làm phước lành, thức của người ấy đi đến phuớc lành, nếu người ấy dự tính làm phi phước lành, thức của người ấy đi đến phi phước lành. Nếu người ấy dự tính làm bất động lành, thức của người ấy đi đến bất động lành.

Này các thầy tỳ kheo, khi nào vị tỳ kheo đoạn tận vô minh, minh được sanh khởi. Vị ấy do vô minh đoạn tận, minh sanh khởi, không dự tính làm phước lành, không dự tính làm phi phước lành, không dự tính làm bất động lành. Do không có dự tính, không có dụng ý, vị ấy không chấp thủ một sự gì ở đời. Không chấp thủ, vị ấy không sợ hãi. Không sợ hãi, vị ấy hoàn toàn tịch tịnh. Vị ấy biết rõ: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa”. (150 Tương Ưng tập 2)

Lời đức Phật dạy trên đây rất rõ, nếu một người còn VÔ MINH, mà đem hết sức mình ra làm những việc thiện để cầu được phước báo nhân thiên; để cầu hưởng được những công đức lợi lạc cho mình, cho người; để được sự an vui giải thoát, điều này không bao giờ có. Vì còn VÔ MINH nên dù làm thiện pháp hay phi pháp đều không lợi lạc, mà đều gặp quả khổ đau.

Vì VÔ MINH nên làm điều thiện vẫn bị chấp thủ; do chấp thủ làm thiện nên người ấy thường sợ hãi; do sợ hãi nên không giải thoát.

Cho nên một người đoạn tận VÔ MINH làm những việc gì họ đều không chấp thủ; do không chấp thủ nên họ không sợ hãi; không sợ hãi nên được giải thoát. Những lời dạy trên đây của đức Phật rất quan trọng, nếu chúng ta chỉ cần phá vỡ VÔ MINH đạt được MINH thì giải thoát hoàn toàn. Vì tâm chúng ta không còn chấp thủ nên MINH mới có, còn chấp thủ thì MINH không bao giờ có.

Cho nên, tâm còn sợ hãi là tâm còn chấp thủ; tâm còn chấp thủ là tâm VÔ MINH. Một người chưa biết, chưa tu học theo Phật pháp thì còn VÔ MINH, cho nên mọi người trên thế gian còn khổ đau là do chấp thủ, nên hoàn toàn họ còn VÔ MINH.

Trong 12 nhân duyên, quan trọng nhất là VÔ MINH và MINH, nhờ đó chúng ta mới dễ xác nhận một người chứng đạo và một người chưa chứng đạo.

Một người chứng đạo thì ai chửi mắng, hay làm bất cứ một việc gì họ vẫn thản nhiên; TÂM BẤT ĐỘNG, còn một người chưa chứng đạo thì đụng việc cũng dễ sân hận phiền não, v.v... Khi tâm còn phiền não sân hận là còn VÔ MINH, khi nào tâm hết sân hận phiền não là MINH.

Bởi còn DỰ TÍNH làm việc này việc khác là còn CHẤP THỦ, nên còn VÔ MINH, ngược lại, làm một việc gì chúng ta cần làm là cứ làm, chớ đừng dự tính; làm trong sáng suốt, việc gì ra việc việc nấy và thành công tốt đẹp, đó là làm trong MINH. Cho nên làm trong MINH là làm không có DỰ TÍNH trước. Trong hiện tại thấy điều gì cần làm là cứ làm, đó là làm việc trong MINH. Do làm không DỰ TÍNH nên không chấp thủ; không chấp thủ thì không sợ hãi; không sợ hãi thì giải thoát hoàn toàn.

Trưởng lão Thích Thông Lạc
Và đây là bộ sách của Thầy Thích Thông Lạc mà tác giả Blog đã sưu tập (tạm thời), bạn có thể tải về: Click tại đây

Nguồn gốc khổ đau của con người

Theo đạo Phật, nguồn gốc khổ đau của con người là do vô minh vô tri. Vô tri về cái gì? Đó là sự vô tri về con người và thế giới mà con người đang sống. Con người và thế giới con người đang sống đó được đức Phật mô tả bằng 5 uẩn (panca-skandha), 12 xứ (dvàdasa-àyatana) và 18 giới (astàdasa-dhàtu).

Ý nghĩa của phạm trù 5 uẩn (Sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mà đức Phật mô tả về thật tướng của con người là ‘vô ngã’, vì bản chất của nó là ‘duyên khởi’; phạm trù 12 xứ là đức Phật đề cập đến mối quan hệ giữa con người với thế giới bên ngoài qua các quan năng khác nhau, tức 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) tiếp xúc với 6 trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, và pháp);

Ý nghĩa về phạm trù 18 giới (bao gồm: 12 xứ và thêm nhãn thức giới, nhĩ thức giới, tỷ thức giới, thân thức giới và ý thức giới) là đức Phật trình bày mối quan hệ giữa sắc pháp và tâm pháp, hay nói một cách khác là quá trình hình thành ‘pháp giới’ là đối tượng nhận thức của tâm. Muốn hiểu rõ về những phạm trù triết học này xin đọc ‘Phẩm uẩn’, ‘Phẩm xứ’ và ‘Phẩm giới’ trong tác phẩm “Xá Lợi Phất A Tỳ Đàm Luận” (1).

Như vậy, 5 uẩn ( panca-skandha), 12 xứ (dvàdasa-àyatana) và 18 giới (astàdasa-dhàtu) là đối tượng thảo luận trong Phật giáo nguyên thủy, đó là những đề tài thảo luận về con người và mối quan hệ giữa con người với thế giới mà con người đang sống. Với phạm vi giới hạn của bài viết này, người viết không giải thích chi tiết ý nghĩa của những phạm trù này, chỉ căn cứ vào “Kinh ví dụ con rắn” (Alaggadupamasuttam) (2) đức Phật đã tường thuật nguồn gốc nỗi khổ của con người như sau, gồm hai yếu tố là: Cái không thực có ở ngoài (3) gây đau khổ phiền muộn và cái không thực có ở bên trong (4) gây lo âu phiền muộn.

a. Cái không thực có ở ngoài, gây phiền muộn

Trong kinh này đức Phật mô tả về cái không thực có ở ngoài gây lo âu phiền muộn như sau:

“Ở đây, này các Tỷ-kheo ! Có người nghĩ như sau: Cái gì chắc chắn là của tôi, nay chắc chắn không là của tôi, cái gì chắc chắn đã là của tôi, nay chắc chắn tôi không được cái ấy. Do vậy, nó sanh lo âu phiền muộn… Như vậy là có cái không thật có ở ngoài gây lo âu phiền muộn”.

Ở đây, cái ‘không thực có bên ngoài’ là con người, những vật sở hữu của chúng ta. Như cha mẹ, vợ chồng, con cái, nhà cửa, ruộng vườn, tiền tài, danh vọng… đó là những cái thuộc sở hữu của chúng ta, tất cả chúng đều ở ngoài thân chúng ta, không phải là cái ở trong thân của chúng ta. Đặc tính của những vật sở hữu này là vô thường, chuyển biến, từ đẹp chuyển sang xấu, từ trẻ trung đưa đến già nua, từ đẹp đẽ biến thành xấu xa, từ sống đến chết, từ có đến không… bản chất của nó là như vậy, cho nên trong kinh gọi là ‘không thật có’. Bản chất của chúng là thế, nhưng ý thức chúng ta lại không chấp nhận trạng thái thay đổi đó, luôn luôn có thái độ muốn giữ gìn, nắm bắt những gì tốt đẹp, và xua đuổi, chạy trốn những gì mà chúng ta không thích, nhưng trên thực tế tâm lý thích hay không thích của con người không làm thay đổi thực tại.

Như vậy, cái mà chúng ta ưa thích nhưng nó không đến là khổ, cái mà chúng ta không thích mà nó cứ hiện hữu trước mắt cũng là khổ. Nguyên nhân của những nỗi khổ này là do thái độ cố chấp, không chấp nhận thực tại cuộc sống là vô thường. Ví như khi chúng ta già đi, tâm lý sợ già là thái độ không chấp nhận sự già ấy; người thân của chúng ta bị bịnh hay qua đời là sự kiện tự nhiên của cuộc sống, nhưng chúng ta nuối tiếc khóc lóc và khổ đau, là biểu hiện thái độ không chấp nhận sự biến đổi đó…. Đó là nguyên nhân khổ đau, là ý nghĩa của câu ‘cái không thật có bên ngoài gây lo âu phiền muộn’.

b. Cái không thực có bên trong gây phiền muộn.

Đức Phật dạy:

“Ở đây, này các Tỷ-kheo! Có người nghĩ như sau: ‘Đây là thế giới, đây là tự ngã, sau khi chết tôi sẽ thường hằng, thường còn, thường trú, không biến chuyển, ta sẽ an trú mãi mãi như thế này’, nhưng khi người ấý nghe Thế Tôn thuyết giảng: Thế giới và tự ngã là do duyên khởi, cái gì do duyên khởi hợp thành, cái ấy vô tự tánh, không có thật ngã. Do vậy, nó sanh lo âu phiền muộn. Như vậy, đây được gọi là cái không thật có bên trong, gây lo âu phiền muộn”

Ở đây, câu ‘không thật có bên trong’ là chỉ cho những quan điểm về con người và thế giới, tức thuộc về lãnh vực tinh thần. Ví dụ chúng ta cho rằng, thế giới là thường hằng, nhưng nghe đức Phật nói, thế giới là vô thường; vì có thái độ cố chấp, muốn bảo vệ lập trường quan điểm của mình, nên tâm người ấy sanh giận hờn và khổ đau…. Một ví dụ khác dễ hiểu hơn, ví như anh A nghĩ rằng cô B chắc chắn thương yêu mình, nhưng trên thực chất cô ấy không thương cho nên tâm của anh A sanh khổ. Đó là những cái không thật có mà tự mình tưởng tượng xây dựng lên, không đúng với thực tế cho nên sanh khổ.

Tóm lại, hai đoạn văn trên đây, đức Phật tường thuật về nguồn gốc khổ đau của con người được xuất phát từ hai nơi bên trong và bên ngoài, cả hai loại khổ này đều xuất hiện từ sự nhận thức sai lầm về con người và vũ trụ, vì con người và thế giới vốn do duyên khởi hình thành, cái gì do duyên khởi hình thành, cái ấy chắc chắn sẽ bị hủy diệt khi các nhân duyên không còn nữa, ngay cả những quan niệm sống của con người cũng bị thay đổi. Đó là chân lý của cuộc sống, cho dù con người có thừa nhận hay không thừa nhận, chân lý vẫn là chân lý. Xuất phát từ thực tế như vậy, trong kinh “Đa giới” (Bahudhatuka-suttam) (5) đức Phật đã nói lên ý nghĩa này như sau:

“Phàm có những sợ hãi gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả sợ hãi ấy, chỉ sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí. Phàm có những thất vọng gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả thất vọng ấy, chỉ sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí. Phàm có những hoạn nạn gì sanh khởi, này các Tỷ-kheo, tất cả hoạn nạn ấy, chỉ sanh khởi cho người ngu, không phải cho người hiền trí.”

Qua thực tế kinh nghiệm của cuộc sống cho thấy, những thất vọng khổ đau trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, đều xuất phát từ sự hiểu biết không chân chính, thiếu sáng suốt, không phải do ai tạo ra, cũng không phải do một đấng siêu hình nào có quyền năng làm điều đó. Do vậy, chúng ta không nên trách cứ bất cứ ai, mà nên tự trách chính mình, tự thân mình là người tạo ra sự đau khổ ấy.

Tóm lại, nguồn gốc của khổ đau là ‘vô minh’, do trạng thái vô minh này mà lòng tham lam và sự sân hận mới có cơ hội xuất hiện. Như vậy tham và sân là bóng dáng của vô minh.


1) “Xá Lợi Phất A Tỳ Đàm Luận”, ‘Phẩm nhập’, (ĐCT 28).
2) HT.Thích Minh Châu dịch, kinh Trung Bộ tập 2, kinh ‘Ví Dụ Con Rắn’ Trường CCPHVN II ấn hành,1986.
3) Chỉ cho sắc, thinh, hương , vị, xúc là những pháp thuộc ở bên ngoài.
4) Chỉ cho những quan điểm, những kiến chấp sai lầm
5) Kinh Trung Bộ tập 3, kinh ‘Đa Giới’, sđd.

Bệnh vô cảm sinh ra từ tâm - cũng phải chữa từ tâm

Hàng ngày, xã hội vẫn chứng kiến những chuyện đau lòng, những vụ việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Trong nỗi đau chung ấy, lại có những người chứng kiến cái xấu, cái ác nhưng không dám đấu tranh, thậm chí vô tâm, vô trách nhiệm. Người xưa "thấy chuyện bất bình chẳng tha" nhưng trong xã hội ngày nay không ít người "thấy chuyện bất bình...tránh xa"- đó là thói vô cảm, lây nhiễm trong nhiều người và đang trở thành "căn bệnh" khó chữa.

Không còn là cá biệt?

Trao đổi với PV Nguoiduatin.vn, TS tâm lý Trịnh Trung Hòa cho rằng: "Báo chí cũng từng đưa tin về trường hợp nhiều vụ tai nạn xảy ra, người thì chết, kẻ bị thương mà người đi qua, kẻ đi lại, cứ đứng nhìn trơ trơ, rất ít người ra tay cứu giúp. Thậm chí, nhiều người còn xúm lại tranh thủ hôi của. Rồi chuyện tài xế ô tô gây tai nạn còn cố tình quay xe lại cán hoặc chèn cho người ta chết hẳn để đền một thể, vì họ nghĩ rằng, nếu còn sống mà bị thương tật, họ phải nuôi dưỡng, tổn phí gấp nhiều lần...

Xem và đọc những tin ấy, người ta căm phẫn đòi trừng phạt nghiêm khắc kẻ gây ra tội ác, có người còn muốn tự tay băm vằm kẻ thủ ác cho hả giận. Rồi người ta phàn nàn rằng: "Luật pháp của chúng ta chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe. Cần phải bổ sung, tăng khung hình phạt!". Nhưng cũng có những kẻ không gây ra tội ác, không thể bị pháp luật trừng phạt song hành vi của họ vẫn bị mọi người chê trách và lên án. Theo tôi, đây là những hành vi đáng lên án, đi ngược lại đạo đức tốt đẹp vốn có của dân tộc Việt Nam. Đó là thói vô cảm".

Câu “thành ngữ” “sống chết... mặc kệ nó” đã phổ biến trong xã hội khi con người vì tư lợi cá nhân. TS. Tô Văn Trường, thành viên Ban chủ nhiệm chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Nhà nước của Bộ Khoa học - Công nghệ cho rằng: "ở nước ta hiện nay, bệnh vô cảm gần như trở thành một căn bệnh xã hội có sức lây nhiễm cao. Đối tượng mắc bệnh này rất rộng rãi, đủ loại người, bao gồm cả những người có học, hiểu biết rộng, tôn trọng luật pháp".

TS Trịnh Trung Hòa cho rằng, những hành vi của căn bệnh vô cảm đang "tác oai tác quái" lên xã hội chúng ta hiện nay. Không chỉ biểu hiện ở tai nạn giao thông, bệnh vô cảm cũng len lỏi cả vào học đường. Từ chuyện nam sinh, nữ sinh đánh nhau, cắt tóc, xé áo... đến chuyện giáo viên mầm non bạc đãi trẻ, lấy băng keo dán vào miệng trẻ... Tất cả đều là biểu hiện của sự vô cảm. Người vô cảm thường là nhút nhát, ngại phiền phức, họ không dám tố giác, ngăn chặn kẻ gây ra tội ác. Thậm chí chính họ lại gây ra tội ác một cách vô thức.

Chia sẻ vấn đề này, anh Nguyễn Văn Quảng- một trong 1000 thanh niên tiêu biểu của Thủ đô được vinh danh cho rằng: "Tôi không phải là nhà xã hội học, nhưng theo tôi, một trong những câu trả lời cho vấn đề này đó là vì hiện nay con người sống quá dối trá, nhất là ở những người lẽ ra phải gương mẫu, trung thực cho người khác noi theo. Thói xấu thời nào cũng có, nhưng nếu nó có ở mức độ phổ biến thì phải xem lại ý thức của số đông".

Phải giáo dục tổng thể

Với bệnh vô cảm, TS Tô Văn Trường cho rằng đã đến lúc phải nghiên cứu một cách nghiêm túc, tìm hiểu cội nguồn, nguyên nhân sâu xa của căn bệnh vô cảm đang có nguy cơ bùng phát và lan truyền rộng rãi ở nước ta.

Nếu là căn bệnh xã hội thì nguyên nhân tổng hợp bao gồm các yếu tố mang tính xã hội, kinh tế, văn hóa và chính trị. Cũng theo ông Trường, dư luận đã không ít lần xôn xao, phẫn nộ trước hành động đánh "bài chuồn" của một nhà tài trợ vàng sau khi đã đăng đàn hứa hẹn nổ như pháo, quảng cáo thương hiệu công ty mình, cá nhân mình. Có những người đã vô cảm đến mức lợi dụng các hoạt động từ thiện, cứu trợ nhân đạo để kiếm chác cả tiếng tăm lẫn tiền bạc! Nhưng chính hành động vô cảm, vô trách nhiệm ấy rất đáng xấu hổ.

Lý giải cho căn nguyên của bệnh vô cảm, TS Trịnh Trung Hòa phân tích: "Người Việt chúng ta từ xưa đến nay luôn có truyền thống tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, yêu thương, sẻ chia với đồng loại. Trong lịch sử, chưa bao giờ dân ta có bệnh vô cảm. Thế nhưng, gần đây, giữa nền kinh tế thị trường, lối sống chạy theo cái "tôi" nên người ta thờ ơ trước nỗi đau đồng loại. Nguyên nhân đầu tiên là do sự chuyển hóa sang cơ chế thị trường, mạnh được yếu thua, một số người có tâm lý việc không liên quan đến mình thì mặc kệ".

Một chuyên gia khác cho rằng, nguyên nhân bệnh vô cảm có nhiều, sơ bộ có thể là: Chất lượng giáo dục ở các nhà trường và gia đình về đạo đức còn nhiều hạn chế... Những quan niệm lệch lạc, chỉ chú trọng kinh tế, coi trọng đồng tiền hơn đạo đức, tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, chỉ lo cho bản thân mình, gia đình mình, tập thể mình, lợi ích nhóm chưa được chấn chỉnh, uốn nắn, xử lý kịp thời. "Những vụ việc vô cảm vừa qua được nêu nhiều nhưng hầu như chỉ là chuyện bàn luận vỉa hè. Tôi thấy có cháu bé bị cha mẹ nuôi bán phở bạo hành, ngược đãi nhiều năm trời, sau khi công luận đưa ra, các cơ quan đoàn thể ở địa phương mới bị khiển trách. Tuy nhiên, việc khiển trách ấy cũng chỉ... lấy lệ thôi chứ có ai bị kỷ luật, bị cách chức gì đâu", chuyên gia này băn khoăn.

Nhiều chuyên gia lo ngại, bệnh vô cảm giết chết dần tâm hồn, lương tri con người. Vô cảm làm cho lương tâm con người băng giá trước nỗi đau của đồng loại, không thiết tha với việc thiện mà luôn tìm cách để làm hại người khác.

Ông Nguyễn Ngọc Hùng, trưởng Văn phòng Luật sư Hùng Nguyễn và Cộng sự (Đoàn luật sư TP.HCM) cho rằng, sự vô cảm là một khái niệm không có gì mới, nó xuất hiện từ khi có con người, nó tồn tại ở các mức độ khác nhau cùng với sự phát triển của xã hội. "Có điều, chúng ta cần tìm cách kiểm soát, khống chế sự vô cảm này. Và một trong những công cụ xã hội quan trọng đó là luật pháp", ông Hùng nhấn mạnh.

Bệnh gì cũng có thể khắc chế được

Để giáo dục đức tính tốt cho lớp trẻ thì người lớn phải làm gương, nhưng nếu "gương không sáng" thì khó nói chuyện đạo đức lắm. TS Trịnh Trung Hòa bày tỏ: "Tôi cho rằng, bệnh gì cũng có thể khắc chế được. Bệnh vô cảm cũng không phải là không có thuốc chữa. Bệnh từ tâm nên phải chữa từ tâm, từ giáo dục nhân cách. Chúng ta phải có ý thức chữa, chữa từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Vô cảm cũng có nhiều cấp độ, nhiều người đến người thân còn vô cảm, nói gì đến người gặp ngoài đường. Hãy biết yêu thương chính những người trong gia đình, những người xung quanh rồi đến người ngoài xã hội. Chính vì vậy, muốn cho xã hội được lành mạnh hóa, con người sống yêu thương nhau, thì tất yếu phải giáo dục. Giáo dục lòng thương người, tình đoàn kết, sẻ chia đồng loại ngay từ khi còn trẻ. Khi lớn lên, con người sẽ hình thành nếp sống và ứng xử theo nếp sống đó".

Vương Hà- Anh Đức 

Tất cả chúng ta đều đang bị đầu độc

Đầu độc từ nguồn thực phẩm

Không có gì để bàn cãi ở khía cạnh này, chúng ta đang ăn chất độc, uống chất độc mỗi ngày: rau cỏ phun thuốc dư lượng, thịt động vật bị bơm thuốc tăng trọng, hóa chất bảo quản, thực phẩm biến đổi Gien, trái cây ngâm thuốc nhanh chín, tươi lâu, cafe hóa chất, đồ ăn lề đường cũng hóa chất. Vâng, mọi thứ chúng ta ăn uống mỗi ngày đều có hóa chất độc hại cả, dù to dù nhỏ, dù nhiều hay ít.

Và tệ hơn, mọi đồ vật chúng ta sử dụng cũng luôn có chứa một loại hóa chất nào đấy, chất làm mềm, chất tạo hương thơm, chất giữ màu… Gần như không có một loại vật dụng nào được làm ra mà không có ít nhất một vài loại hóa chất. Chúng ta có thể kiểm soát từng chất là vô hại đối với cơ thể khi sử dụng nhưng chúng ta không thể kiếm soát được nếu chúng kết hợp hay phản ứng với nhau tạo ra những chất mới. (xem thêm video Story of Stuff để biết thêm điều này).

Không sao, phần lớn mọi người đều quen với điều này và nghĩ không ảnh hưởng gì to lớn lắm đến họ nên không sao cả. Dù cho đó là lý do ngày nay tỷ lệ bệnh nhân mắc các loại ung thư cao đến kỷ lục nhưng cứ không phải mình bị thì chưa sao, chưa bận tâm.

Nhưng nếu như đầu độc cơ thể chỉ mang lại tác hại một phần thì có những loại chất độc khác ảnh hưởng bội phần tới chúng ta, tới cuộc sống mỗi người, tới sự phát triển của đất nước và xã hội. Một loại đầu độc cực kỳ nguy hiểm và nhất định phải bị lên án, bị tẩy chay.

Đó là sự đầu độc về tâm trí

Đầu độc kiến thức

Giáo dục là một trong những việc tối quan trọng của mọi quốc gia, giáo dục giúp tạo nên những thế hệ tuổi trẻ hiểu biết và sáng tạo để xây dựng đất nước, đóng góp cho đời. Chính vì thế kiến thức trong giáo dục như là dưỡng chất quan trọng nhất để nuôi dưỡng những mầm cây. Nhưng nhìn lại nền giáo dục của chúng ta, nhìn lại những kiến thức mà ta đã dạy thì hình như nó không ý nghĩa gì với sự phát triển của mầm cây bao nhiêu cả, nếu không muốn nói là độc hại khôn lường. Kiến thức lỗi thời là một sự thiệt thòi nhưng kiến thức sai lệch lại hoàn toàn là thứ vô cùng nguy hại.

Hãy nhìn lại truyện Tấm Cám – câu chuyện cổ tích được chúng ta lan truyền qua bao thế hệ, dạy cho bao lớp trẻ em ngây thơ trong trắng. Trên thế giới này có câu chuyện nào ly kỳ, hấp dẫn và kinh dị đến thế không? Chúng ta được dạy rằng Cám là đứa ác độc còn Tấm thì thật đáng thương, thật dịu hiền và ai cũng mong con cái mình được trở thành cô Tấm: xinh đẹp – hiền lành – chịu thương chịu khó – nhẫn nhục.

Ôi trời, Tấm hiền lành ư? Tấm dịu dàng thật sao? Hãy nhìn lại đi. Cô Tấm trong câu chuyện của chúng ta là hiện thân của cái ác, của sự tàn độc, thù hằn và tàn nhẫn mới đúng. Đó là một câu chuyện bi thương đẫm máu, ca ngợi hận thù, ghen ghét, đố kỵ, đầy những tình tiết man rợ và ác độc vô cùng. Có câu chuyện cổ tích nào trên thế giới mà nhân vật nữ chính hiền lành nhu mì lại hết lần này đến lần khác muốn trả thù, muốn hại người bằng những phương pháp thâm độc đến mức ghê rợn như thế: “Lấy tranh chồng chị, chị khoét mắt ra.” Đỉnh điểm là xui Cám tắm bằng nước sôi để được trắng da như mình, rồi khi Cám chết thì lấy xác chặt ra ướp làm mắm gửi cho mẹ nó ăn, vâng là chặt ra làm mắm. Đó chẳng phải chính là đỉnh cao của sự man rợ và tàn nhẫn sao?

Tại sao lại có kiểu người ác độc như vậy được đưa vào truyện cổ tích truyền cho muôn thế hệ mà vẫn tự hào và mong mỏi? Nếu như những hành động của Cám là ác một phần thì rõ ràng Tấm còn ác gấp nhiều lần hơn thế. Vậy mà chúng ta vẫn ca tụng cô ấy ư? Trẻ con có nhất thiết phải học về sự ghen tỵ, đố kỵ, hận thù như thế? Có đáng không?

Rồi một kênh truyền hình lớn như VTV mới đây trong chương trình “Đấu trường sinh tử” sao lại có thể tuyên truyền với đại chúng kiến thức rằng con đỉa khi đốt cháy và nghiền nát thành cám rồi vẫn có thể hồi sinh? Trong khi điều này không phải là sự thật, là phản khoa học, chỉ là một tin rác được lan truyền trên mạng xã hội.

Rồi thì những loại kiến thức như đất nước ta rừng vàng biển bạc, nhân dân ta chăm chỉ cần cù, chúng ta luôn xuất khẩu gạo hàng đầu, tiêu điều hạng hai, cafe hạng ba vân vân. Những thông tin kiến thức này đã quá thể lạc hậu, lỗi thời và thậm chí quá cách xa sự thật mà sao vẫn cứ dùng để dạy hoài. Tại sao người ta không dạy những kiến thức hiện đại, rằng Việt Nam là một trong những nước nghèo nàn lạc hậu sống mãi ở thế kỷ 19, rằng tài nguyên của chúng ta đã cạn kiệt rồi, rằng điều quan trọng không phải là xuất khẩu được bao nhiêu nhưng là người dân có đủ gạo để ăn chưa?

Rằng thực trạng chúng ta bị tồn dư thạc sĩ tiến sĩ nhiều nhất thế giới, những người cầm bằng xanh đỏ không thể làm được con ốc con vít cho đời. Tại sao cứ chỉ bắt bao lớp trẻ học và tự hào về những ánh hào quang mốc meo của quá khứ, ép chúng phải tư duy giống nhau, phải có cùng một người bà, một người cô, một kiểu sinh hoạt gia đình trong các bài làm văn. Bắt chúng phải sợ lỗi sai, bắt chúng tin rằng bản thân chúng được đánh giá bằng những con số? Đó chính là một sự đầu độc, và đầu độc bằng giáo dục có lẽ là loại đầu độc tệ hại, gây hậu quả ngiêm trọng và tàn ác nhất.

Đầu độc thông tin

Xã hội hiện tại, chúng ta không chỉ tiêu thụ cơm nước mỗi ngày mà thật ra chúng ta tiêu thụ thông tin còn nhiều hơn. Thông tin chính là loại lương thực nuôi dưỡng trí óc và tâm trí mỗi người nhiều nhất. Thông tin đến từ mọi nguồn, từ ngoài đời thực vào mạng ảo, từ người lạ tới người quen, và kênh quan trọng nhất, kênh truyền thông là kênh mang lại nhiều thông tin nhất cho mọi người. Nhưng hãy nhìn lại cách truyền thông đang làm với thông tin, chúng ta sẽ nhận thấy mình đang bị đầu độc nhiều đến thế nào. Những thông tin sai lệch không được kiểm chứng, những tin rác, tin giật gân, tin sốc, tin động trời, tin hé lộ, tin bật mí….

Mọi loại tin truyền thông mang lại, đều đầu độc chúng ta theo cách nào đó. Nó khiến chúng ta quên đi những mối nguy to lớn quan trọng trước mắt mà tập trung vào những gì chúng muốn: hàng hóa, sản phẩm, trào lưu, ngoại hình, người nổi tiếng, phim ảnh… Những thứ này không hề mang lại điều bổ ích gì cho cuộc sống của chúng ta cả. Vậy mà chúng ta vẫn quan tâm. Truyền thông thật tài giỏi, nó tài giỏi dựa vào sự dễ dãi của độc giả, sự ngu ngốc và háu đói tin tức giật gân của mọi người.

Mới đây tôi đã làm một sự thống kê nhỏ xem tuổi trẻ của chúng ta hiện nay đang quan tâm tới vấn đề gì trong cuộc sống bằng cách liệt kê các tin đăng trên một website nổi tiếng dành cho giới trẻ.

Và đây là kết quả:

* Ngày 24/11
– bao nhiêu tiền lì xì bưng tráp cho cô dâu nổi tiếng
– sao kia mặc hở đẹp hay xấu
– 2 chàng trai TQ giảm cân thành hotboy
– 1 cậu bé có cái tên lạ
– bóc mác những bộ cánh lộng lẫy
– thảm đỏ đầy sao hàn sao thổ
– chuyện cái thảm chùi chân kết bằng hoa của đám cưới một ng nổi tiếng
– chuyện ai đó phớt lờ sự quan tâm của ai đó (tên Hàn không đọc được)
….
* Ngày 25/11
– loạt ảnh của cô bé 6 tuổi
– “giật mình” 10x xưng hô vợ chồng, kể chuyện yêu nhau trên fb
– mỹ nhân Việt người thon gọn, kẻ phát phì
– Thật hư câu chuyện trả tiền bê tráp bèo bọt
– Nong poy giữa sao hàn
– Victoria’s Secret ngày xưa
– áo dài Miss World nhái Burberry
– Hari Won bất ngờ lôi cuốn vs vẻ gợi cảm
– Hari Won (lại HW) những bí mật riêng tư khó tin
– những loại mụn k nên nặn
– Elsa sẽ yêu vệ thần Rise?
– Một bảo mẫu ở Uganda nào đó bạo hành trẻ
– tâm thư H.H gửi cho con

* Ngày 27/11

5 cựu hot-girl làm mẹ vẫn xinh ngất ngây
Cô dâu Y.P xinh đẹp bên chú rể L.T
Mỹ nhân nào sẽ tiếp quản danh hiệu ngọc nữ
Khi cậu ấm cô chiêu làm mẫu thời trang
Thôi copy mục tin hot trong ngày luôn cho nhanh

Nghi vấn Chanyeol lộ ảnh mặc áo chíp của phụ nữ
Top phim Hàn lãng mạn nhất mọi thời đại
9 nhan sắc truyền kỳ nổi tiếng của các trường đại học Trung Hoa
5 cách mix-match cực xinh với denim
Thực hư việc uống nước đun sôi để nguội
Nhận biết 4 căn bệnh ung thư phổ biến
Park Shin Hye nào vừa khóc vừa tỏ tình với bác nuôi
….

Xin lỗi vì nói ra điều này nhưng thật đáng thất vọng quá, đó là tất cả những gì tuổi trẻ – lứa tuổi tràn đầy năng lượng, nhiệt huyết và thời gian – quan tâm sao? Tất nhiên không phải là tất cả, rằng ngoài kia còn biết bao người đang đọc sách, đang nghiên cứu khoa học, công nông nghiệp, đang cố trồng cây hoa nuôi con cá, đang làm những công tác từ thiện, nhưng hình như số đó không nhiều. Phần còn lại của giới trẻ quan tâm những điều này nhất sao? Đâu rồi những kế hoạch cho cuộc đời, những giá trị của thời gian, những ý tưởng sáng tạo, những thành tựu của tuổi trẻ, những góc nhìn, chính sự? Đâu rồi những kiến thức bổ ích, những thông tin quan trọng về đất nước, về thế giới, về con người?

Đó chỉ là một ví dụ nhỏ, nhưng bạn đã thấy chưa, cái cách mà truyền thông lái mọi người theo những thứ tầm thường, những tin tức vớ vẩn. Trong khi tuổi trẻ thế giới sục sôi với những phong trào chính trị, với những phát kiến phát minh, với những chuyến đi trải nghiệm khắp thế giới thì tuổi trẻ Việt Nam lại đang bị ru trong những giai điệu bài hát ngọt ngào nước bạn, những bộ phim ướt át hay những trò game thú vị quên ngày tháng, bị cuốn vào những bộ cánh đẹp đẽ, những phát ngôn gây sốc, những con người nổi tiếng… Nếu như truyền thông làm việc mà nó cần phải làm, phải có trách nhiệm, đó là lan truyền thông tin, là những tin tức giá trị, những kiến thức về cuộc sống thì nhất định thế hệ trẻ nghiện tin tức của chúng ta sẽ thật đáng tự hào. Sẽ không còn những thống kê “nhói đau” kiểu này nữa:

Có 45/45 em đi học bằng xe đạp. Trong đó: Có 3 em phân biệt được líp và đĩa, có 10 em phân biệt được săm và lốp. Và không có em nào biết sửa xe.
Có 41/45 em, thường đi qua sông suối. Trong đó, chỉ có 4 em biết bơi, kiểu bơi “chó ngoi nước lụt”. Số còn lại, chỉ biết lặn, kiểu lặn “xuống nước, ba ngày sau mới nổi”.
Có 45/45 em thường xuyên ăn cơm. Trong đó chỉ có 15 em biết nấu cơm, nhưng trong 15 em biết nấu thì chỉ có 5 em thường xuyên nấu cơm cho gia đình. Có 17/45 em thỉnh thoảng có rửa bát.
Có 45/45 em nhớ sinh nhật của 3 người bạn thân trở lên. Trong đó, chỉ có 4 em là nhớ ngày sinh của bố mẹ mình.
Có 45/45 em đọc sách, (nhưng là đọc các sách giáo khoa). Trong đó có 5 em có đọc sách truyện, nhưng lại bị bố mẹ cấm đoán, phải đọc lén. Có 2 em đã đăng kí mượn sách thường xuyên tại tủ sách miễn phí của thầy Trợ, nhưng sau khi bị bố mẹ phát hiện, lại xin thôi.
Có 45/45 em thường xuyên đi học thêm. Có 45/45 em có khả năng vào ĐH và 45/45 em mong muốn trở thành cán bộ nhà nước.”

Vâng, rõ ràng chúng tôi không muốn có một thế hệ cán bộ nhà nước như các em, những người không bao giờ đọc sách, không biết giúp đỡ gia đình, không trải nghiệm, chỉ biết ngồi ăn sẵn như những con thú cưng nuôi trong lồng kiếng như thế. Và tất nhiên, không trách các em được, có trách thì nên trách nền giáo dục đầu độc và một mạng lưới truyền thông khổng lồ đã đầu độc các em, như đã đầu độc bao lớp người Việt.

Đầu độc tư tưởng

Chúng ta còn bị đầu độc bằng những tin vui khủng khiếp, rằng là nước hạnh phúc thứ ba thế giới, mặc cho mọi khía cạnh về đời sống, kinh tế, xã hội, hạ tầng, giao thông vận tải, giáo dục, y tế đều gần như thuộc top những nước tồi tệ nhất.

Chúng ta bị đầu độc rằng truyền thống ngàn năm văn hiến thật tốt đẹp, những nét văn hóa chợ cóc, văn hóa xe máy, văn hóa lúa nước, văn hóa làng xã… những thứ này đều là văn hóa và đã là văn hóa thì thật tốt đẹp, cần phải bảo tồn.

Chúng ta được đầu độc rằng kinh tế đang phát triển, GDP vẫn tăng đều mặc cho nợ công sắp vỡ tới nơi, mặc cho cách tính GDP chẳng giống một ai trên thế giới cả. Ai đó đã nói, cách tính GDP của chúng ta là lấy tổng chia cho đầu người để ra con số, kiểu như một người chỉ ăn rau, môt người được ăn con gà, nhưng khi chia đều thì ai cũng được ăn cả rau và gà cả, thật tốt đẹp làm sao.

Chúng ta được đầu độc rằng chi tiêu và mua sắm là việc tối quan trọng, rằng ngoại hình và vật phẩm xa sỉ là thứ sẽ làm nên con người chúng ta.

Chúng ta được đầu độc rằng mối quan hệ Việt Nam và thế giới thật tốt đẹp, chúng ta luôn được yêu thương, luôn được tôn trọng và ai khi nghe đến tên Việt Nam cũng vỡ òa kính nể. Sự thật thì bạn hãy hỏi những người hay đi ra nước ngoài sẽ rõ.

Chúng ta được đầu độc rằng Việt Nam giàu có với cơ sở hạ tầng đang được cải thiện chóng mặt, những công trình ngìn tỉ mọc như nấm, nhà văn hóa trăm tỉ, trụ sở phường xã tỉnh lị ủy ban nghìn tỉ, đến cầu cống thậm chí cái nhà vệ sinh cũng phải vài tỉ thì biết Việt Nam mình đang phát triển khủng khiếp thế nào. Đến ông tổng thanh tra luôn than nghèo kể khổ còn có vài ba cái biệt thự bỏ hoang không ai thèm ở, mà dám nói Việt Nam nghèo sao?

Vâng, tất cả chúng ta, ít hay nhiều, đều đang bị đầu độc…

Câu hỏi đặt ra là, chúng ta chấp nhận để bản thân mình chịu cảnh này tới khi nào?