Báo chí đã tốn không ít giấy mực và thời gian cho những cuộc tranh luận nảy lửa về vấn đề tự do báo chí. Và dĩ nhiên, những cuộc tranh luận ấy, một số người viện dẫn tự do báo chí Mỹ như một hình mẫu có một không hai về tự do báo chí.
Những nguyên lý chủ nghĩa C.Mác nêu ra cách đây hơn trăm năm đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đó là không nên bàn có hay không có tự do báo chí, tự do báo chí không bao giờ cũng có, vấn đề là tự do cho ai và tự do để làm gì. Điều này có nghĩa, báo chí luôn mang bản chất giai cấp, tính Nhà nước và luôn chịu những hạn chế cụ thể, người làm báo phải chịu những ràng buộc về ý thức và trách nhiệm công dân.
Mỹ là quốc gia không có luật báo chí, những gì liên quan đến báo chí chỉ được ghi một câu trong tu thính án lần thứ nhất (điều bổ sung, sửa đổi) như sau: “Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào giới hạn quyền tự do ngôn luận hay quyền tự do báo chí của công dân…”. Chính vì vậy mà không ít người, do không hiểu sâu sắc về luật pháp Mỹ hoặc cố tình không hiểu cứ viện dẫn điều này để nói rằng, tự do báo chí ở Mỹ là không giới hạn.
Hiện tại, theo bình chọn của các nhà nghiên cứu, Mỹ đứng 23 thế giới về tự do báo chí. Đây không phải là thứ bậc cao. Về luật pháp, ngoài Tu chính án lần thứ nhất, Quốc hội Mỹ, Tòa án tối cao liên bang và chính quyền các bang đã ban hành hàng trăm văn bản làm công cụ điều chỉnh và hạn chế về quyền tự do báo chí. Hiến pháp Mỹ chỉ cấm Quốc hội liên bang chứ không cấm chính quyền các bang ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có khả năng hạn chế quyền tự do báo chí. Mặt khác, trong khi xử các vụ án liên quan đến tự do báo chí, Tòa án tối cao Mỹ thường đưa ra các phán quyết cụ thể và bắt buộc thực thi trong trường hợp tương tự.

Vụ Edward Snowden đã tố cáo sự thật về tự do báo chí Mỹ
Ở Mỹ, có hai công cụ chủ yếu được dùng để điều phối tự do báo chí là sức mạnh quyền lực chính trị và tài chính. Hai gọng kìm này là công cụ mềm dùng để điều chỉnh các chủ báo để rồi chính các chủ báo này phải thốt lên rằng “Chúng ta bị lừa gạt bởi giới cầm quyền, thông tin bị cắt xén, và các cuộc tranh luận bị cản trở. Họ cho rằng như thế là cần thiết để duy trì một nền dân chủ thực sự… hệ thống báo chí của chúng ta đang trở thành thiên đường của những kẻ lừa dối”. Nhà báo kỳ cựu Peter Amlt chỉ vì trả lời phỏng vấn trên đài truyền hình Al Jazeera không có lợi cho ý đồ của Mỹ trong cuộc chiến tranh vùng vịnh đã bị hãng NBC đột ngột chấm dứt hợp đồng. Ông nói “Tôi bị sa thải vì đã nói lên sự thật”.
Không những thế, báo chí Mỹ còn bị chi phối bởi các tập đoàn truyền thông. Hiện nay, thị trường thông tin Mỹ nằm trong tay một số ít siêu tập đoàn truyền thông. Những tập đoàn này đang từng bước thay đổi nền chính trị và định hướng giá trị xã hội. Qúa trình hình thành các tập đoàn truyền thông khổng lồ xuyên quốc gia thâu tóm và sát nhập diễn ra càng nhanh thì quyền tự do báo chí bị xâm hại ngày càng lớn. Năm 1984, ở Mỹ có 50 tập đoàn truyền thông, năm 1987, con số này đã giảm xuống còn 26. Đến năm 1996, số lượng gã khổng lồ truyền thông chỉ còn có 10. Chính những người làm truyền thông ở nơi được mệnh danh là thiên đường của tự do báo chí phải thốt lên rằng: “Nền báo chí của chúng ta không tự nhiên sinh ra, cũng không phải sản phẩm của thị trường tự do, mà được hình thành bởi các chính sách tham những và các khoản tiền trợ cấp bị mật của các tập đoàn quyền lực và những kẻ buôn bán chính trị ở Washingyto D.C”.
Tháng 1/2010 thông qua bài phát biểu của ngoại trưởng Hilarry Clinton, Chính phủ Mỹ tuyên bố nâng vấn đề tự do Internet lên thành một khía cạnh của nhân quyền. Nước Mỹ cũng nhân mạnh tự do Internet là ưu tiên số một cho chính sách đối ngoại của mình nhằm mục đích phê phán một số quốc gia mà họ cho rằng không mở cửa không gian mạng. Rồi quả bom Wikileaks bùng nổ, chính quyền Mỹ lại ra sức ngăn cản truy cập trang web của Wikileaks, chính quyền Mỹ tìm mọi cách dẫn độ cho được ông chủ của trang web này về Mỹ đòi xét xử dù tội danh chưa thể xác định chính xác, chỉ vì ông này đã tiết lộ bí mật ngoại giao của nước này lên không gian mạng. Họ phong tỏa tất cả các tài khoản Wikileaks và cấm vận các công ty ủng hộ trang web này. Ngày 5/6/2013, dư luận Mỹ chấn động khi báo Anh The Guardian phanh phui Cơ quan An ninh quốc gia Mỹ (NSA) đã bí mật nghe lén điện thoại hàng chục triệu người Mỹ sự dụng dịch vụ của hang viễn thông Verizon. Một ngày sai cơn địa chấn, báo Washingtone Post lại lôi ra ánh sáng vụ NSA và cục Điều tra liên bang Mỹ FBI truy cập trực tiếp vào hệ thống máy chủ hàng loạt tập toàn công nghệ lớn để lấy thông tin người sử dụng Internet. Dư luận phản đối việc xâm phạm đến quyền riêng tư này là không thể chấp nhận được. Chủ tịch kiêm giám đốc điều hành hang AP Gary Pruitt cũng cáo buộc Bộ tư pháp Mỹ đã bí mật nghe lén các cuộc điện thoại của các phóng viên và biên tập viên hãng này trong 2 tháng.
Con người được sinh ra và trưởng thành từ trong cộng đồng. Bởi vậy, bất kỳ cộng đồng nào cũng đòi hỏi mỗi người sống trong nó phải có ý thức chung. Nhu cầu về tự do được xem là một thuộc tính của loài người, là một quyền tự nhiên của con người. Không có tư do thì không có khám phá, không có phát minh sáng chế, không có phát triển … nhưng tự do của mỗi cá nhân không thể không bị hạn chế bởi những những lợi ích những lợi ích của quốc gia, dân tộc, trước hết là sự ổn định xã hội mà thiếu nó thì mọi phát minh, sáng tạo trở nên vô nghĩa. Cuộc sống chỉ ra rằng, quyền tự do của người này nếu không có những hạn chế nhất định thì có thể xâm hại đến quyền, lợi ích của người khác. Tự do báo chí cũng không nằm ngoài quy luật đó.
Nhìn lại lịch sử, tự do ngôn luận, tự do báo chí là một quyền cơ bản của con người, có lịch sử ra đời sau cuộc vùng dậy của nhân dân Pháp đập phá ngục tù Bastille – Paris vào ngày 14/7/1789, lật đổ thể chế vương quyền để thành lập Cộng hòa Pháp dựa trên ba yếu tố: Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Ngay từ năm 1789, học tập Pháp, Quốc hội Mỹ chính lý Hiến pháp lần đầu tiên công nhận quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí tại quốc gia này. Kể từ đó, quyền tự do ngôn luận bắt đầu lan sang các nước Châu âu và Châu Mỹ. Năm 1948, LHQ thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người trong đó có quyền tự do ngôn luận. Qui ước nhân quyền Châu âu ra đời năm 1950, công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 cũng xác định quyền tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người.
Tuy nhiên, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí không phải là không có giới hạn. Qui ước nhân quyền, Điều 10-2 quy định “quyền tự do ngôn luận lúc nào cũng bị hạn chế bởi một số thể thức, một số điều kiện và hình phạt mà pháp luật đã quy định”. Điều 19, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị khẳng định, khi thực hiện quyền tự do ngôn luận không được làm tổn hại đến danh dự và nhân phẩm người khác, lợi ích quốc gia, trật tự công cộng.
Qui ước nhân quyền Châu âu có những điều lệ vô cùng khắt khe để ngăn chặn mọi hành động lạm dụng quyền tự do ngôn luận. Điều 10-2 quy định: “sử dụng quyền tự do ngôn luận lúc nào cũng đi đôi với bổn phận và nghĩa vụ đã được quy định trong một số thể thức, điều kiện và sự trừng phạt mà pháp luật đề ra”. Trong xã hội tự do, dân chủ, thiết kết những điều lệ nhằm giới hạn một số quyền tự do ngôn luận là biện pháp hữu hiệu nhằm bảo vệ an ninh trật tự, luân lý và đạo đức, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người khác.
Điều 29, Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền khẳng định: “Trong khi thụ hưởng các quyền và tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là đảm bảo việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền và tự do của những người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”.

Để cụ thể hóa quyền hiến định này, Nhà nước Việt Nam đã ban hành luật báo chí năm 1989 và sửa đổi, bổ sung năm 1999, Luật xuất bản năm 2001 và đang dự thảo Luật tiếp cận thông tin. Hiện, Bộ thông tin và Truyền thông đã tổng kết 15 thực hiện Luật báo chí từ năm 1989 trên cơ sở dự án Luật báo chí mới và đang tổ chức lấy ý kiến của các ban, ngành. Việc quy hoạch và quản lý báo chí nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho báo chí phát triển mãnh mẽ, vững chắc, chứ không phải là hạn chế, càng không phải là bóp nghẹt. Phát triển tốt đòi hỏi phải đi đôi với quản lý tốt. Qui hoạch sẽ tạo ra những cơ chế, chính sách về tài chính, về đạo tạo nhân lực, huy động đúng đắn các nguồn lực trong xã hội để phát triển báo chí. Việt Nam đã và đang làm những gì cần thiết để đổi mới và phát triển đất nước, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Trong sự nghiệp vẻ vang ấy, báo chí đã góp phần quan trọng; đồng thời chính trong quá trình ấy báo chí và đội ngũ những người làm báo nước ta không ngừng lớn mạnh, xứng đáng là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, cán bộ báo chí là những chiến sỹ cách mạng. Hiểu đúng về quyền tự do báo chí, đội ngủ những người làm báo Việt Nam ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình đối với dân tộc, đất nước và nhân dân. Điều đó giúp dân tộc Việt Nam trở thành một khối thống nhất vững mạnh.
Quốc Anh
Quốc Anh
No comments:
Post a Comment