Từ xa xưa trong tâm thức của người dân Việt luôn âm vang câu ca: “Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba” để nhắc nhở về cội nguồn và đạo lý thủy chung phù hợp với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên lâu đời và bền vững của dân tộc Việt Nam.
Đức vua Lê Thái Tổ sau khi giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ 20 năm của phương Bắc, khẳng định nền tự chủ và văn hiến Đại Việt đã tuyên ngôn về lòng tự tôn dân tộc bằng nguyên lý: “Vật gốc từ Trời, người gốc từ Tổ, ví như nước và cây phải có gốc nguồn… Vì rằng gốc có vượng thì lá mới tốt, nguồn có sâu thì dòng mới dài, nếu không có nhân ái của đời trước bồi đắp dày dạn, phúc trạch đời trước chung đúc lớn lao, thì làm sao lại có thể được như (ngày nay) vậy”. (Lời tựa sách “Lam Sơn thực lục”).
Bộ sử đầu tiên của nhà Lê đã ghi rõ một quan điểm nhìn nhận về nguồn gốc dân tộc: “Sử để ghi chép việc, mà việc hay hay dở dùng làm gương răn cho đời sau… Nước Đại Việt ta ở phía Nam Ngũ Linh, thế là trời đã chia vạch Bắc Nam. Vì thế mới cùng Bắc triều đều làm chủ một phương” (Ngô Sỹ Liên – Đại Việt sử ký toàn thư).
Trong “Bình Ngô đại cáo”, Ức Trai Nguyễn Trãi lại khẳng định hùng hồn hơn nữa bằng áng hùng văn rung động lòng người: “Như nước Đại Việt ta thuở trước/ Vốn xưng nền văn hiến đã lâu/ Bờ cõi, cương vực đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác…”.
Cứ như bộ sách sử xưa nhất còn lại, việc Sử Lược chép thì vào thời đại tương đương với Trang Vương nhà Chu (Trung Quốc, 696 – 681 trước Công nguyên), xuất hiện người xưng “là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, lấy hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu… truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương”. Khảo cổ học còn tiếp tục phát hiện ra những Văn hóa Sa huỳnh, Óc Eo… ở phương Nam để hoàn chỉnh từng bước tru thức về tính bản địa và tính liên tục của tiến trình hình thành dân tộc trên toàn bộ lãnh thổ của nước Việt Nam hiện đại.
Trải suốt thời Lê qua thời Tây Sơn ngắn ngủi, rồi thời Nguyễn đầy thách thức bởi họa xâm lược của thực dân phương Tây, tâm thức về các vua Hùng cùng niềm tự hào về một quốc gia văn hiến tự cường vẫn được các triều đại và nhân dân gìn giữ như một nguồn lực tinh thần to lớn. Triều đình ban sắc phong và nhân dân, đặc biệt ở các làng xã tôn làm thành hoàng các nhân vật trong hệ thống các truyền thuyết liên quan đến thời các vua Hùng dựng nước; những truyền thuyết dân gian nhằm củng cố nhận thức về nguồn gốc dân tộc (Cha Rồng mẹ Tiên), truyền thống chống ngoại xâm (Thánh Gióng), truyền thống lao động, đấu tranh với thiên nhiên (Mai An Tiêm, Sơn Tinh – Thủy Tinh, Bánh chưng bánh giầy)… đã mãi tạo dựng trong tiềm thức mọi người dân Việt Nam về một thời đại các vua Hùng dựng nước.
Vào thời điểm khẩn trương cho công cuộc vận động giải phóng cứu nước, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã nhắc nhở một nguyên lý quan trọng để tìm thấy sức mạnh của toàn dân cho một cuộc nổi dậy sắp đến: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam” (Diễn ca lịch sử nước ta).
Vào đêm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám 1945, các tổ chức yêu nước và cách mạng trong giới thanh niên và sinh viên Hà Nội đã tập hợp lực lượng bằng một lễ giỗ Tổ Hùng Vương ở khu Việt Nam học xá. Cách mạng tháng Tám mới thành công, vị Chủ tịch nước Việt Nam độc lập đã yêu cầu Bộ tuyên truyền ra thông tri cho cả nước tổ chức giỗ đức Thánh Trần (Hưng Đạo đại vương). Và nhân ngày Giỗ Tổ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, các nghi thức truyền thống vẫn được duy trì và tổ chức trọng thể ngay tại Thủ đô. Sau đó, cụ Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước thay mặt Chính phủ đã thân chinh lên Đền Hùng và dâng lên tổ tiên tấm bản đồ non sông gấm vóc Việt Nam giờ đây đã trở thành một quốc gia tự chủ và một thanh kiếm để thể hiện ý chí của toàn dân quyết giữ vững nền độc lập non trẻ của Tổ quốc.
Chính vào thời điểm lịch sử đầy thử thách này, lòng tự hào về truyền thống lịch sử đã trở thành một nguồn lực tinh thần mạnh mẽ cho cả dân tộc bước vào sự nghiệp giữ nước. Giáo sư sử học Trần Văn Giầu viết: “Vào bất kỳ lúc nào, hễ giặc mạnh xâm phạm biên cương của Tổ quốc thì người chiến đấu bảo vệ non sông đều nhất luận huy động lịch sử nhiều nghìn năm của dân tộc để diệt xâm lăng, trong mục đích thiêng liêng đó, các cụ nhiều lần đề cao “gươm núi Sóc”, “cọc Bạch Đằng”. Và mỗi lần như vậy, sự huy động lực lượng lịch sử truyền thống đều mang lại hiệu quả tích cực. Ngay tại Sài Gòn, vào năm 1945, khi chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, sau ngày 9/3, đứng trước một tương quan lực lượng đối phương 9-10, bên ta 1-2, mà thời cơ khởi nghĩa có thể thấy trước mắt gần thôi, vấn đề lớn được đặt ra là, trong một thời gian ngắn ở Sài Gòn, ở Nam Bộ, phải làm sao cho Việt Minh lớn mạnh hơn tất cả các lực lượng đối phương cộng lại thì mới có thể nắm kịp thời cơ giành chính quyền, làm cách mạng, giải phóng dân tộc thành công. Khi ấy các đồng chí phát ra nhiều kế hoạch cụ thể mà toàn bộ tư tưởng được gọi một cách “linh ứng” là “Rước ông Gióng vào Nam” (Hội đồng KHXH – TP. HCM – Lịch sử Việt Nam, tập 1).
Thực tiễn của công cuộc vận động cách mạng nói chung, của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nói riêng đã đúc kết thành một tư tưởng lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện trong lời căn dặn các chiến sỹ Đại đoàn quân Tiên phong ngay bên thềm Đền Hùng, trước khi về tiếp quản Hà Nội: “Các vua Hùng đã có công dựng nước/ Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”...
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thực hiện mục tiêu thiêng liêng là thống nhất nước nhà, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cổ vũ bằng một tinh thần “Bốn ngàn năm lịch sử đang cùng ta đánh Mỹ”. Cũng chính trong những tháng năm kháng chiến gian khổ và thiếu thốn này, công cuộc nghiên cứu khoa học về thời đại Hùng Vương được tiến hành một cách sôi nổi và đạt được những thành tựu to lớn. Dưới tầm bom đạn của giặc Mỹ, nhiều cuộc khai quật khảo cổ học được tiến hành, nhiều cuộc hội nghị khoa học toàn quốc họp và khái niệm về một “Thời đại của vua Hùng dựng nước” cũng được hình thành vào chính giai đoạn lịch sử này...
Kể từ năm Canh Thìn (2000), năm đầu tiên của thế kỷ XXI, của một thiên niên kỷ mới, vào thời điểm công cuộc đổi mới đã trải qua một thập kỷ thử thách và đạt được những thành tựu đáng khích lệ, vào trước thềm của Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên Giỗ Tổ Hùng Vương được tổ chức trọng thể theo nghi thức của Nhà nước (với Nghị định số 82, ngày 6/11/2001, Chính phủ quy định ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là một trong những ngày lễ lớn của dân tộc).
Dương Trung Quốc
No comments:
Post a Comment